Tác động của du lịch đến môi trường thành thị
Một trong những bài học đầu tiên mà các nhà quy hoạch tiếp thu được là du lịch có tác động đến môi trường nông thôn (hoặc tư nhiên) mạnh hơn so với các khu vực thành thị.
Các thành phố có thể thu nhận một số lượng lớn du khách và có thể đương đầu tốt hơn với số lượng lớn đó so với các khu vực (vùng) kém phát triển khác. Các thành phố và đo thị được phát triển nhiều về cở hạ tầng, sẵn có các khách sạn, nhà hàng, hệ thống giao thông vận tải và các dịch vụ công cộng như y tế, bưu điện, cảnh sát… trong nhiều trường hợp và các tiện nghi này chỉ cần mở rộng hơn một chút là có thể đáp ứng được sự gia tăng không ngừng của số lượng du khách.
Tuy vậy, môi trường thành thị có số lượng giới hạn nhất định và khi vượt qua giới hạn này thì bất kỳ một sự gia tăng nào về du lịch sẽ tạo ra những vấn đề khó khăn. Cư dân ở một thành phố thủ đô phàn nàn rằng trong mùa du lịch họ gặp nhiều khó khăn trong lúc đi làm và về nhà vì số lượng khách du lịch sử dụng hệ thống giao thông công cộng đã làm quá tải hệ thống. Hoặc ở một thành phố khác, dân cư kêu ca rằng chất lượng cuộc sống của họ đã bị giảm sút nghiêm trọng bởi những đám đông khách du lịch gây sự thiếu hụt các phương tiện giao thông, làm các tiệm ăn chật cứng người và làm giá cả trong các cửa hàng tăng lên. Nhiều thành phố là điểm du lịch hiện nay cũng phán nàn về những vấn đề tương tự và cư dân ở đây nhận thấy rằng khách du lịch là nguồi thu nhập nhưng đồng thời cũng gây ra nhiều điều bất tiện cho họ.
Một số tác động đến môi trường cũng có liên quan về xã hội. Một dự án phát triển du lịch đồng thời là sự phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật (khách sạn, nhà hàng, quán bar, cửa hàng…) ở một khu vực không chỉ nhằm phục vụ khách du lịch mà cư dân địa phương cũng được sử dụng các tiện nghi đó. Tuy nhiên, cũng phải trả giá cho sự pát triển này như dân số bị phân bố lại, nhiều người dân sống trong các căn nhà rẻ tiền hoặc dưới mức tiêu chuẩn buộc phải di chuyển đi chỗ khác để lấy mặt bằng cho dự án phát triển, ở các trung tâm thương mại, do giá thuê cao và sự thay đổi tính chất của người mua đã dẫn đến sự thay đổi về chủng loại các cửa hàng, cửa hiệu. Trong nhiều trường hợp các dịch vụ cơ bản (cửa hàng tạp hóa, cửa hiệu sửa chữa…) hoặc phải di chuyển ra nơi khác để lấy chỗ cho các cửa hàng ăn uống, cửa hàng lưu niệm, cửa hàng bán đồ thủ công
mỹ nghệ, cửa hàng bán đồ thủ công mỹ nghệ và cửa hàng quần áo thời trang. Với việc di chuyển hoặc đóng cửa các cửa hàng nhỏ hơn, kinh doanh các mặt hàng thông thường hơn làm cho cư dân địa phương phải đi khá xa mới mua được các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu. Một số cửa hàng còn tồn tại trong khu vực như hiệu thuộc, cắt uốn tốc hoặc giặt khô thì sự tăng giá (mà điều này không gây khó khăn đối với khách du lịch) sẽ tạo ra một gánh nặng tài chính đáng kể cho cư dân ở đây. Khi một khu vực ngày càng trở nên nổi tiếng về du lịch thì thành phần dân cư của nó có thể thay đổi. Sự tăng giá đất đai (mà có thể dự đoán trước được) đã dẫn đến những thay đổi trong xây dựng: nhà cửa được xây dựng tạm thời hơn và kiên cố hoặc nhà được làm nhiều tầng hơn thay vì tiêu chuẩn nhà một hoặc hai tầng. Những cư dân sống lâu năm ở Hồng Kông cho rằng các công trình du lcihj làmthay đổi bộ mặt của thành phố, những tòa nhà cao tầng hiện nay tạo bóng che phủ những khu vực, những đường phố trước kia tràn ngập ánh nắng mặt trời cả ngày. Hậu quả của thực tế này là làm cho toàn bộ khu vực sẽ lạnh nhanh hơn vào buổi tối và những cư dân có tuổi cảm nhận rõ nét sự thay đổi nhiệt độ này.
Do nhân thức được những vấn đề tồn tại tiềm tàng, ở nhiều khu vực đang phát tiển khác, người ta phải đặt ra nhiều quy định. Ví dụ, ở một số nước nhiệt đới có quy định cấm việc xây dựng các tòa nhà cao tầng (hoặc cấm xây dựng chúng trên bờ biển hoặc khu vực thượng nguồn sông) hoặc hạn chế chiều cao trung bình. Cũng có quy định liên quan đến số lượng khoảng trống làm bãi đỗ xe phải được tính toán và xác định trong mỗi dự án phát triển.
Ví dụ ở Thái lan, năm 1992 chính phủ đã quyết định đóng cửa sân golf ở Công viên Quốc gia Khao Yai. Quyết định này được sự ủng hộ của Tổng cục Du lịch Thái Lan vì đó là một trường hợp điển hình về việc cố gắng bảo vệ và gìn giữ môi trường. Ngoài ra, Quốc hội nước này đã thông qua nhiều luật lệ, quy định bảo vệ môi trường để phạt lỗi nghiêm khắc hơn đối với những người sâm phạm công viên và các khu vực bảo tồn Quốc gia.
Tác động của du lịch đến môi trường nông thôn
Nếu ảnh hưởng của du lịch ở các khu vực thành thị có thể tạo ra các vấn đề bất lợi về tiện nghi, tiêu chuẩn sống và sự “bức xúc” về môi trường thì những vấn đề này thậm chí có thể còn nhức nhối hơn ở những khu vực nông thôn. Những khu vực có “môi trường
Có thể bạn quan tâm!
- Mối Quan Hệ Giữa Du Lịch Và Một Số Lĩnh Vực Khác - Các Điều Kiện Để Phát Triển Du Lịch
- Mối Quan Hệ Giữa Du Lịch Và Văn Hóa – Xã Hội
- Tác Động Môi Trường Của Du Lịch
- Thời Gian Làm Việc Của Các Nước Công Nghiệp Phát Triển Trên Thế Giới
- Tổng quan du lịch và khách sạn Nghề Nghiệp vụ nhà hàng khách sạn - Trung cấp - Trường CĐ Nghề Kỹ thuật Công nghệ - 14
- Một Số Nguồn Nước Khoáng Chủ Yếu Ở Việt Nam
Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.
đặc biệt” thường là nhỏ, đẹp, hoặc có sự phát triển cao để có thể hấp dẫn mạnh đối với du khách. Nhưng số lượng du khách lớn có thể có tác động mạnh mẽ đến môi trường ở những khu vực này, có thể gây ra sự hủy hoại những nơi họ đã đến thăm quan.
Khách du lịch đến vùng thôn quê với mục đích tận hưởng không gian rộng mở, không khí trong lành và môi trường không ồn ào, đông đúc. Một số người trong các kỳ nghỉ mong muốn sự thanh bình, yên tĩnh, thoáng đãng và một mức độ riêng tư nhất định. Điều này giải thích tại sao có rất nhiều người thích đi dạo trong rừng hoặc nghỉ ngơi tại một nơi yên tĩnh trong công viên quốc gia, trong rừng rậm hoặc khu bảo tồn tự nhiên. Áp lực của cuộc sống hiện đại làm cho nhiều người mong muốn có cơ hội được trốn tránh đến các vùng thôn quê, nghỉ ngơi, giải trí để chuẩn bị sẵn sàng cho tuần làm việc vất vả mới. Tại các nước phát triển, những ngày nghỉ lễ hoặc cuối tuần thường thooi thúc mọi người lên xe, hướng ra ngoại ô đến những nơi có bờ biển, rừng cây hoặc đỉnh núi.
Hình 2: Một số hoạt động của du khách ở vùng nông thôn
Các hoạt động thể thao cũng phổ biến ở khu vực nông thôn như chơi golf, câu cá, đi bộ trong rừng, bơi thuyền, canô hoặc cưỡi ngựa. những người khác có thể về vùng nông thôn vì những lý do hiểu biết và học hỏi đi thăm những địa danh lịch sử, thăm quan các trang trại, khu bảo tồn tự nhiên, các công trình tôn giáo cổ hoặc các điểm hấp dẫn tự nhiên đặc biệt. Vẽ tranh, chụp ảnh và săn bắn cũng là những hoạt động phổ biến khi đi du lịch ở vùng nông thôn.
Những du khách đi về nông thôn cần các tiện nghi và trong khi nhiều người thận trong với môi trường nơi đây thì nhiều người khác không như vậy. Họ đã chặt phá cây cối một cách vô ý thức và thực tế có thể làm trụi một vùng cây rừng để lấy củi phục vụ chuyến du lịch của họ. Vì thế, một số người gác rừng đã rút ra bài học quan trọng là phải cung cấp củi cho những nơi cám trại hoặc có lò nướng thịt. Sau khi có quá nhiều người đi qua một con suối, một khe núi thì hai bờ bắt đầu bị sói mòn, sạt lở và phải tạo ra những lỗi đi nhân tạo.
Rõ ràng nhất là rác thải bỏ lại nơi du lịch ngày càng nhiều. Trong khi du khách đến một khu vực vì vẻ đẹp tự nhiên của nó, khi họ rời khỏi thì vẻ đẹp của khu du lịch bị giảm bớt bởi vỏ hộp, vỏ lon bia, túi nilông, giấy kẹo, đĩa nhựa, cốc xốp và những đồ ăn thừa. Việc lấy các cây cối, động vật, đất đá và các vật tự nhiên khác để làm kỷ niệm chuyến đi là một vấn đề đáng quan tâm. Tại nhiều công viên quốc gia đã đề ra các luật lệ nghiêm khắc và các biện pháp thi hành để bảo đảm du khách không làm trơ trụi công viên và cây cỏ tự nhiên. Thêm vào đó, các động vật hoang cũng dễ bị hư tổn bởi mảnh chai lọ vỡ, thực phẩm thừa và chỗ ẩn náu của chúng bị sáo trộn. Vẫn còn nhiều du khách cho rằng khi vào rừng việc săn bắn thú hoang (hoặc động vật nuôi) sẽ thú vị hơn là ngắm chúng trong môi trường tự nhiên.
Ở một số quốc gia, khách du lịch cũng được khuyến khích tham gia vào phong trào thu dọn rác để làm sạch môi trường. CLB Sierra – một nhóm bảo tồn 110 tuổi có cơ sở ở San-Fran-cis-co tiến hành các tour du lịch “làm sạch đẹp” môi trường. Đây là một trong một số nhóm bảo tồn thực hiện các tour du lịch. Các tour du lịch kết hợp với làm sạch thiên nhiên trong các ngày nghỉ. Theo một số chuyên gia, các tour du lịch này không chỉ là sản phẩm của công tác maketing khéo léo mà chúng rất có ý nghĩa để đảm bảo sự tồn tại của các điểm hấp dẫn tự nhiên.
2. Các điều kiện để phát triển du lịch
Du lịch chỉ có thể hình thành và phát triển trong những điều kiện nhất định, trong đó có những điều kiện khách quan và những điều kiện chủ quan. Trong quá trình hình thành và phát triển du lịch có rất nhiều yếu tố tác động tới như: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và ngoại giao. Tất cả những điều kiện này đều tác động lên nhu cầu du lịch của con người và sự phát triển của hoạt động du lịch.
2.1 Điều kiện chung
2.1.1 Điều kiện an ninh chính trị - an toàn xã hội
Để du lịch không ngừng phát triển trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, sự phối hợp chặt chẽ giữa quốc phòng và an ninh với các hoạt động du lịch cũng như các ngành kinh tế khác có ý nghĩa cực kì quan trọng. Sự bảo đảm vững chắc về quốc phòng, an ninh tạo môi trường ổn định cho đất nước và khách tới tham quan.
Du lịch, bên cạnh việc nghỉ ngơi là “thẩm nhận những giá trị vật chất, tinh thần độc đáo, khác lạ với quê hương mình”. Điều này đòi hỏi sự giao lưu, đi lại của du khách giữa các quốc gia, các vùng với nhau. Bầu chính trị hòa bình, hữu nghị sẽ kích thích sự phát triển của du lịch quốc tế. Một thế giới bất ổn về chính trị, xung đột về sắc tộc, tôn giáo làm ảnh hưởng tới việc phát triển du lịch tức là nó không làm tròn “sứ mệnh” đối với du lịch, gây nên nỗi hoài nghi, tâm lý sợ hãi cho du khách. Bên cạnh đó, những cuộc nội chiến, những cuộc chiến tranh xâm lược với nhiều loại trang thiết bị lợi hại làm hủy hoại tài nguyên du lịch, các công trình nghệ thuật kiến trúc do loài người sáng tạo nên. Ở Việt Nam qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhiều công trình phục vụ phát triển du lịch bị phá hoại, nếu tồn tại thì chỉ còn một phần và chúng ta đang ra sức kiến tạo lại tức là chúng ta quá lạm dụng “bê tông hoá”, “nhựa hoá”, dù biết rằng nó đã mất đi phàn nào đó giá trị nguyên bản. Năm 2000, tại hòn đảo Bali (Inđônêxia) – nơi hấp dẫn khách du lịch của nhiều nước trên thế giới bị đánh bom khủng bố để lại nỗi kinh hoàng cho khách du lịch. Năm 2003, bệnh SAR ở Trung Quốc, dịch Cúm gà ở Việt Nam gây nên những tổn thất lớn cho du lịch Trung Quốc và Việt Nam và gián tiếp ảnh hưởng đến du lịch thế giới.
Thiên tai cũng có tác động xấu đến sự phát triển du lịch. Nhật Bản là đất nước giàu và đẹp nhưng luôn phải hứng chịu những trận động đất, gây khó khă cho phát triển du lịch, có chăng chỉ phát triển du lich bị động. Vào những ngày cuới năm 2004, một trận sóng thần lớn nhất từ trước tới nay xảy ra ở Đông Nam Á, Nam Á đã gây thiệt hại lớn về người và của, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển du lịch. Điều đáng nói là sóng thần đã làm cho nhiều du khách bị thiệt mạng, cơ sở vật chất phục vụ phát triển du lịch bi huỷ hoại nặng nề. Bên cạnh đó là sự phát sinh và lây lan các loại dịch bệnh như tả lỵ, dịch hạch, sốt rét.
Từ những ví dụ trên cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của an ninh chính trị, an toàn xã hội cho khách du lịch, và là nhân tố quan trọng tạo nên sự thành bại của ngành du lịch.
2.1.2 Điều kiện kinh tế
Một trong những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến sự phát sinh và phát triển du lịch là điều kiện kinh tế chung. Nền kinh tế chung phát triển là tiền đề cho sự ra đời và
phát triển của ngành kinh tế du lịch. Theo ý kiến của các chuyên gia kinh tế thuộc Hội đồng Kinh tế và Xã hội của Liên Hợp Quốc, một đất nước có thể phát triển du lịch một cách vững chắc nếu nước đó tự sản xuất được phần lớn số của cải vật chất cần thiết cho du lịch.
Sự phát triển của nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm có ý nghĩa quan trọng với phát triển du lịch. Đây là cơ sở cung ứng nhiều hàng hoá nhất cho du lịch. Ngành công nghiệp dệt cung cấp cho các xí nghiệp du lịch các loại vải để trang bị phòng khách, các loại khăn trải bàn, ga giường…. Ngành công nghiệp chế biến gỗ trang bị đồ gỗ cho các văn phòng, cơ sở lưu trú.
Khi nói đến nền kinh tế của đất nước, không thể không nói đến giao thông vận tải. Từ xa xưa, giao thông vận tải đã trở thành một trong những nhân tố chính cho sự phát triển của du lịch, đặc biệt là du lịch quốc tế. Giao thông vận tải ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch trên hai phương diện: số lượng và chất lượng. Sự phát triển về số lượng làm cho mạng lưới giao thông vươn tới mọi miền trái đất. Chất lượng của phương tiện giao thông ảnh hưởng tới chuyến du lịch ở các mặt sau: tốc độ, an toàn, tiện nghi, giá cả.
Chúng ta có thể khẳng định ngày nay với sự tiến bộ của khoa học – kỹ thuật nhiều thành tựu được áp dụng vào sản xuất. Điều đó đồng nghĩa với điều kiện kinh tế của con người được nâng cao rõ rệt và vấn đề ăn, mặc, trở thành thứ yếu. Nhu cầu được nghỉ ngơi, giải trí và giao lưu tình cảm xuất hiện. Hiện nay, trong các nước kinh tế phát triển, du lịch trở thành nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống của họ. Các nhà nghiên cứu kinh tế Du lịch đã đưa ra nhận định là ở các nước kinh tế phát triển nếu nhu cầu quốc dân trên mỗi người tăng lên 1% thì chi phí du lịch tăng lên 1,5%. Xu hướng ngày nay là hầu hết các du khách ở các nước phát triển đều thích tham quan ở các nước đang phát triển. Điều này rất dễ hiểu vì chi phí ở các nước đang phát triển thấp, phù hợp với điều kiện kinh tế của người dân hạng trung lưu và nghèo ở các nước phát triển.
Kinh tế và phát triển luôn có mối quan hệ hữu cơ, nghịch thuận lẫn nhau. Trong quá trình phát triển của mình, du lịch luôn xem kinh tế là một trong những nguồn lực quan trọng. Sự tác động của điều kiện kinh tế tới phát triển du lịch thể hiện ở nhiều góc độ khác nhau. Tìm hiểu rõ vấn đề này là cách giúp những nhà quản lí và làm du lịch có những chính sách phát triển của ngành phù hợp.
Như chúng ta đã biết, du lịch là ngành dịch vụ, nhận nhiệm vụ “chuyển tải” sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của các ngành kinh tế khác để cung cấp cho du khách nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Vì vậy điều kiện kinh tế đóng vai trò góp phần cung cấp các hàng hóa, dịch vụ cho du lịch. Khi khách tới Vũng Tàu không có nghĩa là chỉ tới để nghỉ dưỡng và tắm biển, bên cạnh hoạt động đó du khách còn có cơ hội và mong muốn thưởng thức hải sản. Vậy ngành kinh tế biển (đánh bắt cá) đóng vai trò cung cấp nguồn lợi thủy sản cho các nhà hàng tại Vũng Tàu phuc vụ nhu cầu ăn uống và mua về làm quà của du khách. Ngành kinh doanh khách sạn cũng thế, nếu như không có ngành xây dựng, ngành sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ, ngành sản xuất đồ dùng thì hoạt động kinh doanh của nó liệu có tồn tại không? Từ những ví dụ trên chúng ta khẳng định điều kiện kinh tế là một trong những nhân tố tiên quyết quyết định sự thành bại trong kinh doanh khách sạn.
Ngành du lịch chỉ phát triển khi có khách du lịch. Nhân tố hình thành nên khách du lịch bao gồm thời gian rỗi, động cơ – nhu cầu đi du lich, khả năng tài chính. Chúng ta thấy rằng khả năng tài chính của cá nhân mỗi du khách đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy bước chân của du khách tham gia cuộc hành trình. Nếu như sau thế chiến II, mục tiêu của con người là kiến thiết lại nền kinh tế đã bị kiệt quệ với nhu cầu chính là cơm ăn, áo mặc, nhà ở. Do đời sống còn thiếu thốn nên nhu cầu du lịch xuất hiện. Trong những năm gần đây, có sư bùng nổ về du lịch thế giới, người ta ước tính rằng có khoảng 3 tỷ lượt du lịch nội địa và 750 triệu lượt khách du lịch quốc tế. Điều này có nghĩa là khi nền kinh tế phát triển, đời sống con người được nâng cao, các nhu cầu hàng ngày được đáp ứng thì con người xuất hiện những nhu cầu cao hơn trong đó có nhu cầu du lịch. Như vậy điều kiện kinh tế phát triển là cơ sở để ngành du lịch khai thác kinh doanh các nguồn khách khác nhau.
Tuy nhiên, như đã nói ở trên, giữa kinh tế và du lịch luôn có mối quan hệ nghịch thuận tức là hoặc kìm hãm, hoặc thúc đẩy nhau phát triển. Cuộc khủng hoảng kinh tế xuất phát từ Mỹ lan sang hầu hết các quốc gia trên thế giới đã khiến cho nhiều ngành kinh tế rơi vào hoàn cảnh “đêm tối không có đường ra”, trong đó có ngành du lịch. Cuộc khủng hoảng kinh tế khiến không ít doanh nghiệp du lịch phá sản, nhiều điểm du lịch, khu du lịch, các cơ sở lưu trú vắng khách. Nguồn thu từ du lịch thấp. Hậu quả là lương người lao