Sự Cần Thiết Của Việc Quy Định Tội Lừa Đảo Chiếm Đoạt Tài Sản Trong Đấu Tranh Xử Lý, Phòng Chống Tội Phạm

Dưới góc độ pháp luật hình sự "chiếm đoạt tài sản" là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành tài sản của mình 31, tr. 366, hoặc "hành vi cố ý chuyển biến một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành tài sản của mình hoặc của một nhóm người hoặc cho người khác mà mình quan tâm" 31, tr. 366. Hành vi chiếm đoạt tài sản có đặc điểm sau đây:

a. Xét về mặt khách quan, hành vi chiếm đoạt là hành vi làm cho chủ tài sản (người là chủ sở hữu tài sản hoặc người có quyền quản lý tài sản) mất hẳn khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trái pháp luật tài sản đó. Như vậy, chiếm đoạt xét về mặt thực tế là quá trình vừa làm cho chủ tài sản mất tài sản vừa tạo cho người chiếm đoạt có tài sản đó, quá trình này xét về mặt pháp lý không làm cho chủ sở hữu mất quyền sở hữu của mình mà chỉ làm mất khả năng thực tế thực hiện các quyền cụ thể của quyền sở hữu. Hành vi chiếm đoạt được thể hiện dưới những dạng hành vi cụ thể khác nhau tùy thuộc vào mối quan hệ cụ thể giữa người chiếm đoạt với tài sản chiếm đoạt cũng như vào hình thức chiếm đoạt cụ thể.

b.Tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt đòi hỏi phải có đặc điểm là còn nằm trong sự chiếm hữu, sự quản lý, kiểm soát của chủ tài sản. Nếu tài sản đã thoát ly khỏi sự chiếm hữu, sự quản lý, kiểm soát của chủ tài sản (bị thất lạc) thì không còn là đối tượng của hành vi chiếm đoạt. Chỉ khi tài sản còn đang do chủ tài sản chiếm hữu thì mới có thể nói đến hành vi chiếm đoạt, mới nói đến hành vi làm mất khả năng chiếm hữu của chủ tài sản.

c. Xét về mặt chủ quan, chiếm đoạt là hành vi được người phạm tội thực hiện có chủ đích nên lỗi của người có hành vi chiếm đoạt là lỗi cố ý trực tiếp. Người thực hiện hành vi chiếm đoạt biết tài sản chiếm đoạt là tài sản đang có người quản lý nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành tài sản

của mình. Những trường hợp lầm tưởng là tài sản của mình hoặc tài sản không có người quản lý đều không phải là trường hợp có hành vi chiếm đoạt. Như vậy, hành vi chiếm đoạt tài sản được coi là bắt đầu khi người phạm tội bắt đầu thực hiện việc làm mất khả năng chiếm hữu của chủ tài sản, để tạo khả năng đó cho mình. Khi người phạm tội đã làm chủ được tài sản chiếm đoạt thì lúc đó hành vi chiếm đoạt được coi là đã hoàn thành, người phạm tội coi là đã chiếm đoạt được tài sản. Dấu hiệu chiếm đoạt có thể là mục đích chiếm đoạt, là hành vi chiếm đoạt hoặc là chiếm đoạt được.

Việc chiếm đoạt tài sản của người khác ở tội lừa đảo được thực hiện bằng thủ đoạn gian dối, là dấu hiệu để phân biệt với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt khác. Thủ đoạn gian dối, theo định nghĩa của giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội thì: “Gian dối chiếm đoạt tài sản là việc người phạm tội đưa ra những thông tin không đúng sự thật là cho chủ sở hữu hoặc người quan lý nhầm tưởng, tự nguyện trao tài sản cho người phạm tội” 8, tr. 271.

Thứ ba, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện bởi lỗi cố ý. Tội phạm là một thể thống nhất của hai mặt khách quan và mặt chủ quan, nếu mặt khách quan là những biểu hiện ra bên ngoài thì mặt chủ quan là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội, hai bộ phận này của yếu tố tội phạm có quan hệ mật thiết với nhau, luôn gắn bó với nhau. Hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội luôn được thể hiện thông qua những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, do vậy, muốn nhận thức biết được mặt chủ quan của tội phạm phải thông qua một quá trình nhận thức theo một phương pháp biện chứng. Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của sự xâm hại nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự - lỗi, tức là thái độ tâm lý của chủ thể được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội bị do mình thực hiện và đối với hậu quả của hành vi đó.

Theo Điều 9 Bộ luật hình sự, lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó, tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Theo qui định này thì Tội lừa đào chiếm đoạt tài sản được thực hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi phạm tội và có thái độ mong muốn chiếm đoạt được tài sản của người khác.

Từ những phân tích này, trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những điểm hợp lý trong khái niệm về tội phạm của Bộ luật hình sự 1999 và những vấn đề đã được thực tiễn áp dụng pháp luật kiểm nghiệm, có thể đưa ra định nghĩa khoa học về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối, cung cấp thông tin sai sự thật làm cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản nhầm tưởng tự nguyện trao tài sản cho người phạm tội.

1.2. Sự cần thiết của việc quy định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong đấu tranh xử lý, phòng chống tội phạm

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 98 trang tài liệu này.

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội phạm mang tính “truyền thống”, nó hiện diện trong luật hình sự của các quốc gia, trong mọi thời kỳ lịch sử. Ở nước ta, trước khi ra đời Bộ luật hình sự 1985 (Bộ luật hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đã có tội phạm này trong các văn bản luật đơn hành như: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản; Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng công dân năm 1970…

Điều đó cho thấy, việc qui định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là cần thiết và tất yếu trong đấu tranh, xử lý, phòng ngừa tội phạm bảo vệ quyền sở hữu về tài sản của nhà nước, tổ chức và cá nhân. Sự cần thiết đó thể hiện trên các khía cạnh sau:

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam - Trên cơ sở số liệu xét xử địa bàn thành phố Đà Nẵng - 3

a. Việc quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản làm cơ sở để xác định mức giới hạn phải chịu trách nhiệm hình sự với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói chung, để phòng chống các tội phạm thì cũng phải dựa vào khái niệm cơ bản tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trên cơ sở quy định dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khác với tội phạm khác hoặc các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Từ đó, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm mới định hướng về ban hành thể chế, chính sách, tuyên truyền giáo dục trong xã hội ngày càng rõ nét đối với tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Qua đó giúp cho xã hội có những biện pháp nhằm kiểm soát, quản lý quyền sở hữu tài sản tốt hơn. Đồng thời việc quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ngoài dấu hiệu gian dối, giá trị tài sản chiếm đoạt phải đạt mức thấp nhất là hai triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc từ dưới hai triệu đồng nhưng gây hiệu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội danh này.

Trách nhiệm hình sự là một nội dung thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân người phạm tội, mà ở đó Nhà nước thể hiện sự phản ứng có tính chất phủ định của mình đối với hành vi phạm tội và người phạm tội. Trong hoạt động quản lý, Nhà nước không những tạo lập sự cân bằng, điều tiết xã hội, ngăn ngừa và xử lý những đột biến xấu, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và các vấn đề xã hội đồng thời thông qua các qui định của luật hình sự nhà nước thực hiện chức năng bảo vệ các quan hệ xã hội thống trị, trong đó có quan hệ sở hữu.

Chính sách hình sự đối với các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được hiểu là những đánh giá có tính định hướng của Nhà nước về việc có cần thiết phải xử lý người thực hiện hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế cụ thể bằng pháp luật hình sự hay không và nếu cần thiết thì hình thức và mức độ của các hậu quả pháp lý được áp dụng sẽ như thế nào. Nếu Nhà nước đánh giá một hành vi nào đó có mức độ nguy hiểm đáng kể, cần thiết phải xử lý bằng các biện pháp hình sự nghiêm khắc mới đạt được mục đích răn đe và phòng ngừa chung thì hành vi đó sẽ bị coi là tội phạm và đi kèm với nó các hậu quả pháp lý bất lợi (trách nhiệm hình sự) sẽ được quy định, áp dụng đối với người thực hiện hành vi đó. Trong trường hợp Nhà nước thấy chỉ cần áp dụng các biện pháp xử lý hình sự trong một chừng mực nhất định hoặc chỉ cần xử lý bằng biện pháp phi hình sự khác thì sẽ có những quy định giới hạn về việc coi là tội phạm cũng như loại và mức trách nhiệm pháp lý có thể áp dụng.

Như vậy, có thể thấy, dưới góc độ thực tế thì cơ sở của việc xác lập trách nhiệm hình sự đối với Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thể hiện ở hai nội dung: (1) Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của nhóm tội phạm hay tội phạm cụ thể; và (2) Chính sách hình sự của Nhà nước đối với nhóm tội phạm hay tội phạm cụ thể đó.

Ở góc độ pháp lý hình sự thì trách nhiệm hình sự được đặt ra khi có đủ các yếu tố sau: (1) Chủ thể là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo luật định; (2) Chủ thể đã thực hiện một (hoặc nhiều) hành vi được Luật hình sự quy định là tội phạm; (3) Còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và chủ thể đó không được miễn trách nhiệm hình sự theo luật định.

Cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự là căn cứ có tính chất bắt buộc chung do luật hình sự quy định và phải dựa vào đó, các cơ quan Nhà nước có

thẩm quyền mới có thể đặt vấn đề trách nhiệm hình sự của người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được luật hình sự quy định là tội phạm. Ở nước ta, cơ sở của trách nhiệm hình sự được ghi nhận tại Điều 2 Bộ luật hình sự: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Có thể nhận thấy quy định vừa nêu bao hàm hai nội dung: Thứ nhất, chỉ người nào phạm tội mới phải chịu trách nhiệm hình sự; Thứ hai, tội phạm phải được quy định trong Bộ luật hình sự.

Từ những phân tích nêu trên có thể khẳng định sự kiện pháp lý duy nhất làm phát sinh trách nhiệm hình sự chỉ có thể là tội phạm. Tội phạm, hiểu theo ý nghĩa pháp lý hình sự, là hành vi có đủ yếu tố cấu thành tội phạm do luật định. Căn cứ pháp lý của trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế hay bất kỳ tội phạm nào khác chính là cấu thành tội phạm. Cấu thành tội phạm của Tội lừa đảo được qui định trong Bộ luật hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung).

Trong lĩnh vực khoa học pháp lý hình sự từ trước đến nay mặc dù vẫn còn có những quan điểm khác nhau về vị trí của các yếu tố cấu thành tội phạm, nhưng có một nội dung mà tất cả đều thống nhất đó là cụ thể hóa cơ sở của trách nhiệm hình sự là việc hành vi đã thực hiện thỏa mãn các dấu hiệu do luật định về tội phạm, được phản ánh trong cấu thành tội phạm các tội phạm cụ thể. Điều này có nghĩa là phân tích cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với các tội lừa đảo thực chất là phân tích các dấu hiệu pháp lý đặc trưng có ý nghĩa định tội.

b. Trách nhiệm hình sự được biểu hiện ra bên ngoài bằng các hình thức cụ thể phản ánh mức độ phải chịu trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Hình thức trách nhiệm hình sự (hay hình thức biểu hiện cụ thể của trách nhiệm hình sự, dạng của trách nhiệm hình sự) chính là dạng hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu do việc đã thực hiện tội phạm.

Trong các hình thức của trách nhiệm hình sự thì phổ biến nhất và nghiêm khắc nhất là hình phạt và kèm theo nó là án tích. Trong khoa học pháp lý hình sự thì tội phạm luôn gắn liền với hình phạt, hay nói cách khác hình phạt chính là hậu quả pháp lý bất lợi thường thấy của tội phạm. Do vậy, một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm thì việc họ bị đe dọa áp dụng hình phạt với tính chất là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là điều khó tránh khỏi. Đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế thì hình phạt được quy định ngay trong chế tài của các tội phạm (chương XVI – Bộ luật hình sự năm 1999, đã được sửa đổi, bổ sung).

Trên các diễn đàn khoa học pháp lý và trong một số sách báo pháp lý cũng có ý kiến đồng nhất trách nhiệm hình sự với hình phạt - hậu quả bất lợi nhất mà người phạm tội phải gánh chịu do hành vi phạm tội của họ. Tuy nhiên, theo chúng tôi thì trách nhiệm hình sự và hình phạt tuy có mối quan hệ mật thiết, khăng khít với nhau nhưng lại là hai khái niệm riêng biệt. Trong phần lớn các trường hợp phạm tội, trách nhiệm hình sự được thực hiện thông qua việc áp dụng biện pháp cưỡng chế Nhà nước mang tính nghiêm khắc nhất

- đó là hình phạt, bởi hình phạt là hình thức trách nhiệm hình sự mang tính phổ biến nhất mà Nhà nước áp dụng đối với người phạm tội. Hình phạt thực chất là một hình thức biểu hiện cụ thể của hậu quả pháp lý bất lợi đối với người phạm tội. Tuy nhiên, do trách nhiệm hình sự và hình phạt đều gắn liền với tội phạm và chịu hình phạt là hình thức biểu hiện trách nhiệm phổ biến nên không có sự phân định rạch ròi hai khái niệm này trên thực tế. Ý nghĩa của việc phân biệt chúng, theo chúng tôi, cũng chỉ mang tính lý luận.

Chúng tôi cũng đồng ý với quan điểm cho rằng trách nhiệm hình sự đối với Tội lừa đảo không chỉ bó hẹp ở nghĩa vụ phải chịu hình phạt được quy định đối với tội phạm này, mà còn bao gồm cả nghĩa vụ chịu sự tác động của các hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, bị áp dụng các

biện pháp cưỡng chế trách nhiệm hình sự (hình phạt và các biện pháp tư pháp) và bị mang án tích. Thậm chí, đối với cả các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự thì trước khi xem xét tha miễn trách nhiệm hình sự, tính chất tội phạm của hành vi mà người đó đã thực hiện và nghĩa vụ pháp lý phải gánh chịu các biện pháp tác động mang tính hình sự (trách nhiệm hình sự) cũng vẫn được khẳng định. Miễn trách nhiệm hình sự chỉ có thể được áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội, bởi trách nhiệm hình sự phát sinh ngay tại thời điểm người nào đó thực hiện hành vi phạm tội. Quyết định miễn trách nhiệm hình sự của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền vừa là căn cứ pháp lý ghi nhận hành vi của người được miễn trách nhiệm hình sự là tội phạm và trách nhiệm hình sự của họ, vừa là căn cứ chấm dứt trách nhiệm hình sự đối với họ, do đã thoả mãn điều kiện được miễn trách nhiệm hình sự 35. Người được miễn trách nhiệm hình sự không phải gánh chịu trên thực tế những hậu quả bất lợi mà luật quy định cho người đã thực hiện tội phạm đó, do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thấy rằng việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt hay các dạng trách nhiệm hình sự khác trong trường hợp này là không cần thiết và vì thế họ được miễn trách nhiệm hình sự.

Khi người phạm tội bị tác động bởi hình thức trách nhiệm hình sự phổ biến là hình phạt, hay ngay cả trong trường hợp được miễn hình phạt thì đều có hậu quả là họ bị mang án tích trong một thời hạn nhất định và bị ghi vào lý lịch tư pháp. Trong thời gian chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mới thì tùy từng trường hợp họ sẽ bị coi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.

Đối với các Tội lừa đảo, hình thức trách nhiệm hình sự được quy định trong luật và quyết định trên thực tế cũng có những nét khác biệt so với các hình thức trách nhiệm hình sự được quy định và quyết định đối với người phạm tội thuộc nhóm tội khác. Sự khác biệt này xuất phát từ tính chất nguy hiểm cho xã hội của nhóm tội xâm phạm sở hữu và chính sách hình sự của Nhà nước đối với nhóm tội phạm này.

Ngày đăng: 12/11/2023