Ngoài tình tiết chiếm đoạt tài có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng, tình tiết "lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây hậu quả rất nghiêm trọng" được hiểu là trường hợp hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã gây thiệt hại về thể chất, về tài sản, thiệt hại phi vật chất cho người bị hại cũng như cho xã hội (ngoài những thiệt hại mà điều luật đã quy định đủ để cấu thành tội phạm), cụ thể:
- Làm chết hai người.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60 %;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của những người này từ 101% đến 200%, nếu không thuộc các trường hợp nêu trên.
- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng.
- Gây thiệt hại về tính mạng và sức khỏe và tài sản mà hậu quả bao gồm từ hai đến ba tình tiết nêu trên [9].
Ngoài những thiệt hại về sức khỏe hoặc tài sản có thể xác định được nêu trên còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi phạm tội gây ra như: ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Phạm tội thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự người phạm tội sẽ bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm, đây là tội phạm rất nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự cũng như các căn cứ pháp lý khác để đưa ra hình phạt hợp lý.
Có thể bạn quan tâm!
- Lịch Sử Lập Pháp Hình Sự Về Tội Lừa Đảo Chiếm Đoạt Tài Sản Từ 1945 Đến Nay
- Người Nào Bằng Thủ Đoạn Gian Dối Chiếm Đoạt Tài Sản Xã Hội Chủ Nghĩa Thì Bị Phạt Tù Từ Sáu Tháng Đến Năm Năm.
- Phân Biệt Với Tội Đánh Bạc (Điều 248 Bộ Luật Hình Sự 1999)
- Khái Quát Tình Hình Tội Lừa Đảo Chiếm Đoạt Tài Sản Ở Nước Ta Những Năm Gần Đây
- Nguyên Nhân Và Điều Kiện Phạm Tội Lừa Đảo Chiếm Đoạt Tài Sản
- Những Nguyên Nhân Và Điều Kiện Xuất Phát Từ Hoạt Động Của Cơ Quan Bảo Vệ Pháp Luật
Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.
Ví dụ: Tòa án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới 7 năm) nhưng không được dưới 2 năm tù khi xét thấy người phạm tội có từ 2 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng.
Khung tăng nặng thứ ba (khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999)
Khoản 4 Điều 139 BLHS 1999 quy định chế tài lựa chọn từ 12 đến 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình khi thỏa mãn một hoặc nhiều dấu hiệu sau:
a. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở
lên;
b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng;
Trong đó tình tiết "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" là trường hợp hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã gây ra những thiệt hại về thể chất, về tài sản, thiệt hại phi vật chất cho người bị hại cũng như cho xã hội (ngoài những thiệt hại mà điều luật đã quy định đủ để cấu thành tội phạm), bao gồm những trường hợp sau:
- Làm chết ba người.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của tám người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 201% trở lên, nếu không thuộc các trường hợp đã nêu ở trên.
- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên
- Gây thiệt hại về tính mạng và sức khỏe mà hậu quả từ bốn tình tiết nêu trên [9].
Ngoài những thiệt hại về sức khỏe hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi phạm tội gây ra như: ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Phạm tội thuộc khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, người phạm tội sẽ bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự cũng như các căn cứ pháp lý khác để đưa ra hình phạt hợp lý.
Để việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được hợp lý chúng ta cần xem thêm Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/3/2001 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao [12] Nghị quyết này có hướng dẫn áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
Trong trường hợp không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và không có tình tiết giảm nhẹ TNHStrách nhiệm hình sự hoặc vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ, nhưng đánh giá tính chất tăng nặng và tính chất giảm nhẹ tương đương
nhau, thì xử phạt người phạm tội mức án tương ứng với giá trị tài sản bị chiếm đoạt như sau:
a. Xử phạt tù từ 12 năm đến 20 năm nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng.
b. Xử phạt tù chung thân nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị một tỷ năm trăm triệu đồng đến dưới bốn tỷ năm trăm triệu đồng.
c. Xử phạt tử hình nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ bốn tỷ năm trăm triệu đồng trở lên…
Về hình phạt tử hình đối với người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 có nhiều ý kiến cho rằng nên bỏ hình phạt này. Theo tôi, việc quy định hình phạt tử hình là cần thiết trong công tác đấu tranh phòng chống Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tình hình phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên thực tế diễn biến ngày càng phức tạp và nghiêm trọng, số lượng tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ án lừa đảo mới bị phát hiện ngày càng lớn, ví dụ: vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản diễn ra tại Công ty dịch vụ kỹ thuật dầu khí thuộc Tổng công ty dầu khí Việt Nam với số tiền bị chiếm đoạt gần 7 triệu USD tương đương trên 100 tỷ đồng Việt Nam. Với các trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng như vậy việc áp dụng hình phạt tử hình là cần thiết nhằm trừng trị thích đáng kẻ phạm tội, răn đe, ngăn ngừa tội phạm phát sinh đồng thời có ý nghĩa rất lớn trong công tác đấu tranh, phòng và chống tội phạm nói chung.
* Hình phạt bổ sung
Hình phạt bổ sung là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước nhằm mục đích giáo dục, cải tạo, ngăn ngừa người bị kết án phạm tội mới. Nó còn củng cố kết quả của hình phạt chính nhằm nâng cao hiệu quả của hình phạt áp dụng đối với người phạm tội.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Tuy Bộ luật hình sự 1999 quy định 7 loại hình phạt bổ sung song các nhà làm luật chỉ quy định được áp dụng 3 loại hình phạt bổ sung nêu trên mà không áp dụng hình phạt trục xuất, cấm cư trú, quản chế, tước một số quyền công dân đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì có thể phạt dưới 10 triệu đồng nhưng không được dưới 1 triệu đồng (quy định tại khoản 3 Điều 30 Bộ luật hình sự).
Trường hợp bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định là trường hợp người phạm tội lợi dụng chức vụ, danh nghĩa cơ quan, tổ chức, nghề nghiệp hoặc công việc để phạm tội.
Tịch thu tài sản chỉ áp dụng đối với trường hợp phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, là việc tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án. Tuy nhiên khi tịch thu tài sản vẫn phải để cho người bị kết án và gia đình họ có điều kiện sinh sống.
2.1.2. Các biện pháp tư pháp
"Các biện pháp tư pháp là các biện pháp hình sự được Bộ luật hình sự quy định, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt" [9].
Việc áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người phạm tội không nằm ngoài mục đích cải tạo giáo dục họ đồng thời ngăn ngừa khả năng sẽ gây thiệt hại đến các lợi ích được luật hình sự bảo vệ [17]. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản các biện pháp tư pháp được áp dụng như sau:
- Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm nhằm loại bỏ những điều kiện vật chất của tội phạm, góp phần cải tạo, giáo dục người phạm tội, ngăn
ngừa tội phạm, ổn định và đảm bảo trật tự xã hội. Vật và tiền trực tiếp liên quan tới tội phạm là vật hoặc tiền là công cụ, phương tiện dùng vào việc thực hiện tội phạm hoặc thông qua việc thực hiện tội phạm mà có, hoặc do mua bán đổi chác những thứ ấy mà có, hoặc là vật Nhà nước cấm sản xuất, tàng trữ mua bán.
- Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại nhằm khôi phục lại tình trạng sở hữu ban đầu trước khi tội phạm xảy ra. Đây là biện pháp tư pháp buộc người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. Trong trường hợp làm cho tài sản bị chiếm đoạt giảm giá trị thì bên cạnh việc trả lại tài sản còn phải bồi thường trị giá tài sản bị thiệt hại. Nếu vì lý do nào đó mà tài sản bị chiếm đoạt đã thất lạc hoặc không còn nữa thì người phạm tội phải bồi thường toàn bộ trị giá tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. Trong trường hợp người phạm tội sử dụng trái phép tài sản của người khác vào hành vi phạm tội mà làm hỏng hoặc mất tài sản đó thì cũng phải buộc sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp.
- Bắt buộc chữa bệnh là biện pháp tư pháp được Bộ luật hình sự quy định áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, nhằm phòng ngừa khả năng gây thiệt hại cho xã hội do những người này gây ra. Đối với người phạm tội khi có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng khi bị kết án hoặc khi đang chấp hành hình phạt đã mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì Tòa án có thể quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với họ, sau khi khỏi bệnh có thể họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc phải tiếp tục chấp hành hình phạt. Đây là biện pháp tư pháp mang tính nhân đạo, tạo điều kiện cho người bệnh được chữa bệnh tại cơ sở chữa bệnh chuyên khoa, trong trường hợp không cần thiết có thể giao cho gia đình hoặc người giám hộ trông nom dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Người thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người dùng thủ đoạn gian dối nhằm
làm cho người khác tin tưởng để chiếm đoạt tài sản, như vậy khi phạm tội họ không thể là người mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, vì vậy biện pháp bắt buộc chữa bệnh chỉ do Tòa án áp dụng khi họ bị kết án hoặc khi họ đang chấp hành hình phạt mà phát sinh bệnh đến mức mất khả năng nhận thức hoặc mất khả năng điều khiển hành vi. Việc áp dụng biện pháp tư pháp này phải căn cứ vào kết luận của hội đồng giám định pháp y [46, tr. 16].
2.1.3. Miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt
"Miễn trách nhiệm hình sự là không buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mà người đó đã phạm". "Miễn hình phạt là không buộc người phạm tội phải chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước là hình phạt về tội mà người đó đã thực hiện" [9].
Điều 23, 25, 55, 57 Bộ luật hình sự quy định những trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự và miễn chấp hành hình phạt. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng được áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và thời hiệu miễn chấp hành hình phạt theo quy định của những điều luật trên. Ngoài ra việc miễn truy cứu trách nhiệm hình sự còn được áp dụng trong trường hợp được đặc xá, đại xá hoặc trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, hoặc trong trường hợp do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa (Điều 25 Bộ luật hình sự 1999).
Căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, người được miễn trách nhiệm hình sự vẫn có thể phải chịu một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế về tố tụng hình sự, hành chính, dân sự hoặc lao động hay biện pháp kỷ luật khác.
2.2. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG NHỮNG TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT
Về cấu thành tội phạm trong những trường hợp cấu thành đặc biệt như chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt…đã được phân tích tại mục 1.2.2
chương 1, tuy nhiên trách nhiệm hình sự trong những trường hợp này không giống như trường hợp cấu thành cơ bản, vì vậy cần phải phân tích rõ trách nhiệm hình sự được quy định trong Bộ luật hình sự đối với những trường hợp này như thế nào, việc này có ý nghĩa lớn trong công tác xét của Tòa án cũng như trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
2. 2.1. Chuẩn bị phạm tội
"Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn trong đó người phạm tội có hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội phạm đó" [9].
Trong quá trình chuẩn bị phạm tội, đối tượng tác động của tội phạm chưa bị biến đổi tình trạng ban đầu, quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm chưa bị xâm hại, nhưng việc chuẩn bị phạm tội là tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm, nó hợp thành một thể thống nhất với hành vi phạm tội, khách thể bị xâm hại như thế nào cũng phụ thuộc vào quá trình chuẩn bị phạm tội. Do đó có những hành vi ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội cũng phải chịu chế tài nghiêm khắc của luật hình sự [16].
Điều 17 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: "Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện" [7].
Từ đó xác định đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ta chỉ xem xét các tình tiết thuộc điểm a khoản 3 và điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào các tình tiết đó xác định: Người mới có hành vi chuẩn bị phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì đã bị phát hiện có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này ở giai đoạn chuẩn bị nếu tài sản có ý định chiếm đoạt có giá trị từ 200 triệu đồng trở lên (theo các điểm a khoản 3 và khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự). Đối với tình tiết "gây hậu quả rất nghiêm trọng" (điểm b khoản 3) và "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" (điểm b khoản 4) không được đặt ra vì các hậu quả này là hậu quả của hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây ra, mà trong giai đoạn chuẩn bị phạm
.....