Tội cưỡng đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam - 13

ước khi thực hiện các hoạt động tố tụng. Đây là mối quan hệ biện chứng, bảo đảm cho hoạt động tố tụng được kịp thời, khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, do đó nếu thúc hiện không tốt tất sẽ ảnh hưởng tới chất lượng và hiệu quản hoạt động tố tụng. Từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, có thể khẳng định hoạt động tư pháp nói chung, trong đó có các hoạt động điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự nói riêng đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Chính sách, pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự đã từng bước được định hình và hoàn thiện, tạo điều kiện cho các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng có được môi trường pháp lý thuận lợi nhằm thực hiện các chức năng của mình.

Tuy nhiên, trước yêu cầu bức thiết của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, hoạt động tố tụng hình sự hiện nay đang bộc lộ những bất cập và khiếm khuyết nhất định. Quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân là sự phối hợp trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Đó là một trong những nguyên tắc do pháp luật tố tụng quy định, có sự tác động, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau, đảm bảo việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành. Phạm vi công tác phối hợp là từ khi phát hiện tội phạm đến khi kết thúc điều tra, truy tố, xét xử. Thực tiễn cho thấy ở nơi nào phối hợp tốt thì ở đó đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án nhanh, chính xác, phục vụ được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm và đáp ứng được nhiệm vụ chính trị của địa phương, việc điều tra, truy tố, xét xử đảm bảo đúng người đúng tội, được dư luận đồng tình. Tuy nhiên, do chưa nhận thức đầy đủ về công tác này nên có lúc, có nơi sự phối hợp trên không được quan tâm. Có nhiều trường hợp còn biểu hiện cục bộ làm cho vụ án bị kéo dài, phải trả hồ sơ để điều tra nhiều lần mà kết quả rất thấp.

Để khắc phục tình trạng trên, thời gian tới cần có sự phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả giữa các cơ quan Tòa án nhân dân với Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan điều tra trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Đây là mối

liên hệ cần thiết, kịp thời khắc phục những sai sót có thể xảy ra, không chỉ đảm bảo việc xét xử được khách quan, chính xác mà còn nâng cao vị trí, uy tín của các cơ quan tố tụng. Về hoạt động điều tra hình sự, tuy thẩm quyền và địa hạt tiến hành tố tụng đã được pháp luật quy định rõ, nhưng vẫn còn hiện tượng chống lấn về thẩm quyền điều tra. Nhiều vụ án hình sự được xác định là trọng điểm, sơ sự chỉ đạo tập trung, nhưng thời gian tiến hành điểu tra kéo dài, không chỉ vi phạm thời gian điều tra, mà còn có nguy cơ xâm phạm quyền con người trong hoạt động tư pháp. Chất lượng điều tra trong một số vụ án còn yếu kém, hồ sơ bị trả lại nhiều lần, chất lượng công tác giám định phục vụ cho công tác điều tra còn hạn chế. Việc tham gia tố tụng của luật sư từ giai đoạn điều tra gặp nhiều khó khăn, còn mang nặng tính hình thức; nhiều trường hợp vi phạm quyền bào chữa và nhờ người khác bào chữa của người bị tạm giữ, bị can nhưng chậm được khắc phục. Về thực hành quyền công tố và kiểm sát: ở nhiều địa phương, trong nhiều vụ án, vai trò của Viện kiểm sát, các kiểm sát viên trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự còn rất bị động. Trong một số vụ án hình sự, việc họp trù bị vẫn tồn tại và chi phối trong suốt các giai đoạn tố tụng hình sự, dẫn đến việc hạn chế vi phạm nguyên tắc phân công, phân nhiệm trong hệ thống các cơ quan tư pháp và nguyên tắc độc lập xét xử của tòa án. Thực tế, công cuộc cải cách tư pháp hiện nay cần phải có sự tham gia đồng tình của toàn xã hội, của các cấp, các ngành. Muốn thực hiện tốt chiến lược cải cách tư pháp, cần phải có chương trình, kế hoạch đã đề ra. Các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương cần quan tâm hơn nữa trong công tác, đôn đốc, chỉ đạo thực hiện và công tác tư pháp.

Thực tiễn hoạt động tố tụng cho thấy, có nhiều nơi các cơ quan tiến hành tố tụng chưa tạo được sự cân bằng, hợp lý và thực chất trong việc thực hiện quan hệ phối hợp và chế ước: hoặc quá coi trọng quan hệ phối hợp mà quên đi trách nhiệm kiểm soát, cản trở gây khó khăn cho nhau trong việc thực hiện nhiệm vụ. Biểu hiện của sự phối hợp quá mức đó là sự cả nể, bao che bỏ qua cho nhau những sai sót nghiệp vụ. Hiện nay còn có thực trạng Tòa án

không trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định của pháp luật mà để cho Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra hợp thức hóa hồ sơ đối với những sai sót. Sự thụ động, ỷ lại vào quan điểm khởi tố, truy tố, quan điểm thống nhất tại các cuộc họp liên ngành về đường lối giải quyết các vụ án là một trong những nguyên nhân dẫn đến oan, sai. Do đó, công tác cải cách tư pháp không thể xem nhẹ vấn đề này.

3.3.5. Tăng cường, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp

Hệ thống pháp luật nước ta vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu tính thống nhất, thiếu tính khả thi, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng sửa đổi pháp luật còn nhiều bất cập và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng các văn bản hướng dẫn còn chậm, chất lượng các văn bản chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa được quan tâm đầy đủ. Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế. Thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiết yếu

Theo nghị quyết của Đảng, việc xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam phải đảm bảo các nguyên tắc sau đây:

Một là, thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa, xã hội, giữ vững quốc phòng an ninh.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

Hai là, phát huy cao độ nội lực, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia và định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ba là, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật; kết hợp hài hòa

Tội cưỡng đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam - 13

bản sắc văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tính hiện đại của hệ thống pháp luật.

Bốn là, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thi hành pháp luật.

Năm là, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cần tiến hành đồng bộ với cải cách hành chính, cải cách tư pháp, với những bước đi vững chắc; coi trọng số lượng và chất lượng, có trọng tâm, trọng điểm, dự tính đầy đủ các điều kiện bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thi hành của pháp luật.

Yêu cầu quan trọng của Nhà nước pháp quyền là quản lý đất nước và xã hội bằng pháp luật; cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức trong bộ máy Nhà nước và hệ thống chính trị chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép; công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm. Chính vì vậy, xây dựng hệ thống pháp luật theo hướng hoàn thiện, đồng bộ, thống nhất là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách lâu dài của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước ta cũng đặt ra yêu cầu tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi để thể chế hóa Cương lĩnh chính trị, các quan điểm, đường lối của Đảng, phát huy vài trò và hiệu lực quản lý của nhà nước, bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế xã hội, tăng cường quốc phòng-an ninh, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước ngày càng trong sạch vững mạnh.

KẾT LUẬN


Qua nghiên cứu đề tài luận văn thạc sĩ luật học "Tội cưỡng đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam" cho phép chúng tôi rút ra một số kết luận sau đây:

1. Bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của các cá nhân, tổ chức luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, nhà nước cũng như của toàn xã hội. Do đó đấu tranh phòng, chống các tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và tội cưỡng đoạt tài sản nói riêng là nhiệm vụ chính trị quan trọng, đòi hỏi sự nỗ lực của các cấp, các ngành và ý thức chấp hành pháp luật của mỗi công dân.

2. Việc xét xử các vụ án cưỡng đoạt tài sản trong thời gian qua đã có nhiều tiến bộ tích cực, song bên cạnh đó còn bộc lộ những tồn tại làm giảm hiệu quả trong nhiệm vụ đấu tranh phòng chống loại tội phạm này. Một số quy định của pháp luật về tội cưỡng đoạt tài sản còn chưa chặt chẽ, cụ thể, nhận thức và áp dụng các quy định của BLHS về tội cưỡng đoạt tài sản còn chưa thống nhất, điều đó dẫn đến kết quả công tác xét xử chưa cao, chưa phát huy hết hiệu quả công tác giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội.

3. Để góp phần nâng cao nhận thức về vấn đề quy định của BLHS năm 1999 về tội cưỡng đoạt tài sản, đề tài đã phân tích, đánh giá thực trạng công tác xét xử trên địa bàn toàn quốc từ năm 2008 đến năm 2013. Qua đó chỉ ra những thiếu sót về nhận thức cũng như những tồn tại trong công tác áp dụng pháp luật hình sự trong thực tiễn.

4. Dấu hiệu định khung hình phạt của tội cưỡng đoạt tài sản là dấu hiệu thuộc CTTP tăng nặng cho phép xác định khung hình phạt tăng nặng so với mức hình phạt quy định trong CTTP cơ bản của tội cưỡng đoạt tài sản. Khi các tình tiết của tội phạm không những thỏa mãn dấu hiệu định tội mà còn thỏa mãn dấu hiệu của CTTP tăng nặng sẽ cho phép chuyển khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội cưỡng đoạt tài sản từ khung hình phạt

của CTTP cơ bản sang khung hình phạt của CTTP tăng nặng. Qua phân tích, kiến nghị cả về lập pháp cũng như những vấn đề cần rút kinh nghiệm trong thực tiễn xét xử. Theo chúng tôi, những vấn đề nghiên cứu trên đây là rất cấp thiết và bổ ích, đã phân tích cụ thể những vấn đề tồn tại, vướng mắc, từ đó tìm ra các giải pháp hợp lý, đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện pháp luật cũng như những biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS về dấu hiệu định khung của tội cưỡng đoạt tài sản như sau:

1) Tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng trong đó có hướng dẫn áp dụng các dấu hiệu định khung của tội cưỡng đoạt tài sản;

2) Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn và ý thức trách nhiệm của cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật;

3) Tăng cường quan hệ phối hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan. Các giải pháp này có ý nghĩa quan trọng nhằm mục đích phòng ngừa và đấu tranh hiệu quả hơn đối với tội cưỡng đoạt tài sản ở nước ta, qua đó đảm bảo xử lý nghiêm minh, kịp thời và đúng pháp luật mọi hành vi phạm tội và người phạm tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Phạm Văn Beo (Chủ biên) (2008), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm), Nxb Cần Thơ, Cần Thơ.

2. Mai Bộ (2007), "Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản", Tòa án nhân dân,

(11), tr. 20-24.

3. Bộ Tư pháp (1957), Tập luật lệ về tư pháp, Hà Nội.

4. Lê Cảm - Nguyễn Ngọc Chí (Đồng chủ biên) (2004), Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

5. Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản (Đồng chủ biên) (2005), Định tội danh: Lý luận, hướng dẫn mẫu & 360 bài thực hành, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

6. Lê Văn Cảm (Chủ biên) (2005), Giáo trình Luật hình sự (phần chung),

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

7. Lê Văn Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

8. Nguyễn Ngọc Chí (2000), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.

9. Nguyễn Văn Đạm (1999), Từ điển tường giải và liên tưởng Tiếng Việt,

Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

10. Đảng Lao động Việt Nam (1970), Chỉ thị số 185-CT/TW ngày 09/12/1970 của Ban Bí thư Trung ương về tăng cường bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Nguyễn Ngọc Điệp (2000), Tìm hiểu và bình luận các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Mũi Cà Mau, Cà Mau.

15. Nguyễn Ngọc Hòa (1991), Tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

16. Nguyễn Ngọc Hòa (2007), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

17. Nguyễn Quốc Hùng (1975), Hán Việt tân từ điển, Nhà sách khai trí, Sài Gòn.

18. Insun Yu (1994), Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

19. Nguyễn Lân (2002), Từ điển Từ và Ngữ Hán Việt, Nxb, Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

20. V.I. Lênin (1981), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.

21. V.I. Lênin (1981), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.

22. "Luật hình sự của một số nước trên thế giới" (1998), Dân chủ và pháp luật, (Số chuyên đề).

23. Hồ Chí Minh (1985), Nhà nước và Pháp luật, Nxb, Pháp lý, Hà Nội.

24. Đinh Văn Quế (1998), Bình luận án, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

25. Đinh Văn Quế (2000), Thực tiễn xét xử và pháp luật hình sự, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

26. Đinh Văn Quế (2005), Pháp luật hình sự thực tiễn xét xử và án lệ, Nxb Lao động - xã hội. Hà Nội;

27. Đinh Văn Quế (2005), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Phần các tội phạm tập II, các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 07/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí