Các Giải Pháp Bảo Đảm Định Tội Danh Đúng Tội Lạm Dụng Tín Nhiệm Chiếm Đoạt Tài Sản


Trên cơ sở đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã một phần hiện thực hoá nội dung đặc trưng nói trên với yêu cầu hệ thống tư pháp phải được hoàn thiện để hướng tới mục tiêu bảo vệ công lý, lẽ phải, lẽ công bằng. Các cơ quan tư pháp phải bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. nhất là toà án phải xử lý nghiêm minh mọi hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; khắc phục việc xử lý oan, sai đồng thời xác định rò quyền, trách nhiệm của công dân trong việc thực thi quyền dân chủ và trách nhiệm của Nhà nước trong việc duy trì, bảo đảm kỷ cương, trật tự công cộng. Xuyên suốt trong các quy định của BLHS là nguyên tắc nhân đạo của nhà nước, nguyên tắc xử lý tội phạm với tinh thần hướng thiện nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả phòng ngừa tội phạm. Yêu cầu cấp thiết đặt ra phải xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh vì TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Trong đó, nội dung quan trọng mang những giá trị căn bản và phổ quát của công lý là bảo đảm định tội danh đúng theo pháp luật hình sự. Trong vụ án hình sự nói chung, vụ án LDTNCĐTS nói riêng có đạt được Công lý hay không? có bảo vệ được Công lý hay không? trước tiên phải bảo đảm định tội danh đúng.

Thứ ba: Thực hiện bảo vệ quyền con người

Bộ luật tố tụng hình sự là cơ sở pháp lý góp phần bảo vệ quyền con người. Một số nguyên t ắc l iên qu an đ ến b ảo v ệ qu yền con n g ười đ ã đ ược gh i nh ận t rong BLTTHS n hư: Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân (Đi ều 4); Bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật (Điều 5); Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân (Đi ều 6 ); Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm,


tài sản của công dân (Đi ều 7 ); Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân (Đi ều 8); Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật (Đi ều 9 ); Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Đi ều 11 )... Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, thực hiện chức năng xét xử có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật, pháp chế, bảo vệ quyền con người. Việc bảo vệ quyền con người của Tòa án trong tố tụng hình sự được thể hiện trên hai phương diện: Một là, đấu tranh chống tội phạm, phát hiện kịp thời để đưa ra xử lý nghiêm minh trước pháp luật đối với người phạm tội xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp, trong đó có các quyền của con người. Hai là, bảo đảm các quyền của con người của bị cáo không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng. Thể chế các quy định của Hiếp pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân, BLHS năm 2015 đã có nhiều điểm mới đề cao quyền con người, quyền công dân nhằm loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự; tha tù trước thời hạn có điều kiện cho các đối tượng khi có vi phạm. Điều này thể hiện tinh thần thượng tôn Hiến pháp năm 2013 của BLHS.

Tòa án thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình thông qua việc xét xử các vụ án nói chung và xét xử những vụ án hình sự nói riêng trên cơ sở đảm bảo những giá trị căn bản và phổ quát của công lý “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” (Điều 102 Hiến pháp năm 2013) bằng việc đảm bảo trong quá trình định tội danh các vụ án hình sự không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; nguyên tắc hai cấp xét xử.


Trong quá trình xét xử hai cấp thì vẫn còn nhiều sai sót hay vi phạm trình tự thủ tục tố tụng thì sẽ được xem xét lại các bản án đã có hiệu lực pháp luật đảm bảo mọi việc xét xử khách quan, đúng pháp luật nhằm bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 393 BLTTHS năm 2015. Giám đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt được áp dụng khi bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị phát hiện có những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Thủ tục này là hình thức đảm bảo pháp chế XHCN trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm nguyên tắc xét xử kịp thời, công bằng, công khai và nguyên tắc suy đoán vô tội. Một người chỉ được xem là có tội khi có Bản án quyết dịnh tội danh, hình phạt. Vì vậy, trên cơ sở xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng và căn cứ vào kết quả tranh tụng nên các chủ thể tiến hành định tội danh, đặc biệt là Hội đồng xét xử phải bảo vệ quyền con người khi ban hành phán quyết bằng bản án hoặc quyết định tuyên bố một chủ thể phạm tội hay không phạm tội. Suy cho cùng Hội đồng xét xử là chủ thể trung tâm thực hiện bảo vệ quyền con người, bảo đảm định tội danh đúng, trong đó có định tội danh tội LDTNCĐTS đạt hiệu quả và chất lượng.

Thứ tư: phục vụ hội nhập quốc tế

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 98 trang tài liệu này.

Sau nhiều năm đổi mới, công tác tư pháp ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng Nhà nước Pháp quyền XHCN. Hội nhập quốc tế là một quá trình tất yếu của nước ta, do bản chất xã hội của lao động và quan hệ giữa con người. Nước ta muốn tồn tại và phát triển phải có quan hệ và liên kết với nhau tạo thành cộng đồng. Nhà nước ta đã nội luật hóa các điều ước quốc tế Việt Nam ký kết và tham gia phục vụ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.


Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bình Dương - 9

Các chủ thể có thẩm quyền định tội danh cần thống nhất cao nhận thức tích cực về hội nhập quốc tế và nội luật hóa các quy định liên quan đến lĩnh vực hình sự trong các điều ước quốc tế mà nước ta đã ký kết là yêu cầu khách quan, bức thiết trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định kinh tế, chính trị, xã hội, phát triển đất nước, đóng góp tích cực vào việc giữ gìn hòa bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác ở khu vực và trên thế giới.

Quá trình hội nhập đã tác động mạnh mẽ nhiều mặt đời sống xã hội của nước ta, cơ cấu xã hội có thể biến động phức tạp và khó lường, làm cho sự phân tầng, phân hoá xã hội cũng trở thành yếu tố tiêu cực, nguy cơ thất nghiệp và sự phân hoá giàu nghèo sẽ tăng lên mạnh mẽ dẫn đến những hệ lũy gia tăng tình hình phạm tội. Do đó, Các chủ thể có thẩm quyền định tội danh phải xác định chính xác những hành vi phạm tội, xác định đúng tội danh và xử lý kịp thời, nghiêm minh tội phạm đó nhưng phải đảm bảo phù hợp với các thỏa thuận mà nước ta đã ký kết nhằm thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của quốc gia thành viên và tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm.

Khẳng định hội nhập quốc tế của nước ta là một xu thế tất yếu lớn của thế giới cũng đồng thời chỉ ra con đường phát triển không thể nào khác đối với nước ta trong thời đại toàn cầu hóa là tham gia hội nhập quốc tế. Sự lựa chọn tất yếu này còn được quyết định bởi rất nhiều lợi ích mà hội nhập quốc tế tạo ra cho nước ta. Việc thực hiện đúng hoạt động tội danh trong các giai đoạn tố tụng của vụ án sẽ góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho sự hội nhập quốc tế của nước ta trong hoạt động tư pháp, tạo niềm tin về sự minh bạch hệ thống pháp luật Việt Nam cho các nhà đầu tư nước ngoài khi có thiện chí đầu tư tại Việt Nam.


3.2. Các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

3.2.1. Tăng cường nhận thức lý luận về định tội danh

Nhận thức lý luận về định tội danh là yếu tố trực tiếp hình thành và phát triển toàn diện khả năng tư duy đối với hoạt động định tội danh đúng. Đặc biệt là trong thời đại công nghệ thông tin ngày nay, những sai lầm, khiếm khuyết trong nhận thức sẽ có ảnh hưởng lớn hơn, nhanh hơn, phạm vi bao trùm hơn đến hoạt động định tội danh nói dung và định tội danh tội LDTNCĐTS nói riêng. Có thể thấy rằng nhận thức lý luận về định tội danh là mặt biểu hiện trong hoạt động định tội danh của chủ thể có thẩm quyền định tội danh. Trong 15 năm qua, việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 49- NQ/TW tại tỉnh Bình Dương được tổ chức một cách đồng bộ, toàn diện. Chất lượng, hiệu quả các hoạt động tư pháp, trọng tâm là hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được nâng lên rò rệt. Để phát huy những kết quả đạt được cần có phương thức tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tư pháp, nhất là đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp được củng cố, tăng cả về số lượng, chất lượng. Cần có sự phối, kết hợp của các cấp, các ngành, nhất là các cơ quan tư pháp trong thực thi nhiệm vụ định tội danh để hoạt động định tội danh ngày càng được tăng cường và phát huy hiệu quả; góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trong hoạt động định tội danh, nhận thức lý luận về định tội danh cần được xem là một biện pháp cơ bản đối với tình hình tội phạm.

Một trong những tiêu chuẩn cơ bản để xác định mức độ hoàn thiện của một hệ thống pháp luật đó là tính đồng bộ trong nhận thức lý luận về định tội danh phải có sự thống nhất, không mâu thuẫn, không trùng lặp, chồng chéo của chủ thể có thẩm quyền tiến hành hoạt động định tội danh.Tuy nhiên, có


một số quy phạm pháp luật trong Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự điều chỉnh về cùng một vấn đề nhưng chủ thể có thẩm quyền tiến hành hoạt động định tội danh không đảm bảo tính đồng bộ trong nhận thức lý luận về định tội danh, gây ảnh hưởng đến sự hoàn thiện của pháp luật TTHS nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung. Vì vậy, cần phải tiếp tục hoàn thiện nhận thức lý luận về định tội danh của chủ thể có thẩm quyền tiến hành hoạt động định tội danh thông qua các chương trình đào tạo nghiệp vụ của chủ thể có thẩm quyền tiến hành hoạt động định tội danh, rút kinh nghiệm thực tiễn trong từng giai đoạn tố tụng đối với chủ thể có thẩm quyền tiến hành hoạt động định tội danh. Cần tiếp tục thực hiện nghiêm chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội; phối hợp, đẩy nhanh việc xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật, nhất là Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự; tăng cường tổ chức các hội nghị tập huấn, các lớp bồi dưỡng chuyên sâu để thống nhất nhận thức, thực hiện đúng, đủ nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể có thẩm quyền tiến hành hoạt động định tội danh theo quy định mới của các đạo luật về tư pháp; xây dựng, hoàn thiện các quy trình, kỹ năng trong công tác thực hiện hoạt động định tội danh đối với chủ thể có thẩm quyền tiến hành hoạt động định tội danh, tạo sự chuyển biến về nhận thức và hành động để nâng cao chất lượng trong hoạt động định tội danh.

3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật

Trước diễn biến ngày càng phức tạp và nguy hiểm của các hành vi phạm tội trong lĩnh vực xâm phạm quyền sở hữu nói chung và tội LDTNCĐTS nói riêng đòi hỏi các quy định của pháp luật phải hoàn thiện nhằm tạo khung pháp lý vững chắc cho thực tiễn áp dụng, từ đó nâng cao hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần ổn định trật tự quản lý của Nhà nước, bảo vệ đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thúc đẩy nền kinh tế của đất nước phát triển bền vững.


Qua quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng để truy cứu TNHS đối với hành vi chiếm đoạt tài sản của tội LDTNCĐTS, tác giả nhận thấy cần phải hoàn thiện một số vấn đề liên quan đến định tội danh nói chung và định tội danh tội LDTNCĐTS phù hợp với tình hình phát phát triển của đất nước. Qua nghiên cứu theo tác giả, cần phải tiếp tục hoàn thiện BLHS hoặc ban hành các văn bản hướng dẫn để áp dụng thống nhất mà đặc biệt hướng dẫn về tội LDTNCĐTS là một trong những tội phạm xảy ra khá phổ biến, cụ thể đường lối xử lý hình sự đối với hành vi LDTNCĐTS.

Mặc dù có một số điểm mới, tiến bộ hơn so với quy định trong BLHS năm 1999 ở phần dấu hiệu định tội danh nhưng BLHS năm 2015 vẫn bộc lộ vướng mắc khi áp dụng trong thực tiễn, cụ thể: quy định “đến thời hạn trả lại tài sản”, hành vi “cố tình không trả”, cụm từ “có điều kiện, có khả năng”, “cố tình không trả” , cụm từ “có điều kiện, có khả năng”, “cố tình không trả”, yếu tố “có điều kiện”, “có khả năng”, hành vi chiếm đoạt “tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ”, hành vi “Sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản”. Đối với các vấn đề nêu trên hiện tại vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thống nhất. Như vậy, vấn đề đặt ra là thời hạn ấn định để người thực hiện hành vi chiếm đoạt trả tài sản cho bị hại là bao lâu để xác định là “cố tình không trả” và khi nào được hiểu là “có điều kiện, có khả năng”, “cố tình không trả”. Dựa vào đâu để biết được chính xác là “có điều kiện, có khả năng”. Những vấn đề nêu trên tạo rất nhiều khó khăn cho chủ thể có thẩm quyền định tội danh thực hiện đúng. Hoặc hành vi chiếm đoạt “tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ” thì làm sao xác định tài sản có điều kiện như thế nào được xác định là phương tiện kiếm sống chính của bị hại. Thêm một vấn đề nữa là hành vi “Sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản” được hiểu như


thế nào là dùng tài sản vào mục đích bất hợp pháp? Đây là một vấn đề không đơn giản, phải căn cứ vào pháp luật cụ thể nào trong hệ thống pháp luật Việt Nam để xác định khi nào được gọi là “bất hợp pháp” và hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn đang bỏ ngò khái niệm này.

Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về xây dựng quy trình cu thể cho hoạt động định tội danh; kết hợp hài hoà bản sắc văn hoá, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tính hiện đại của hệ thống pháp luật.

Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng phù hợp với mục tiêu, định hướng của Chiến lược cải cách tư pháp; xác định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý cho từng cơ quan tiến hành tố tụng. Trọng tâm là hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân, bảo đảm toà án xét xử độc lập, đúng pháp luật, kịp thời và nghiêm minh; phân định thẩm quyền xét xử của toà án sơ thẩm và toà án phúc thẩm phù hợp với nguyên tắc hai cấp xét xử. Hoàn thiện cơ chế quản lý toà án nhân dân địa phương theo hướng bảo đảm tính độc lập giữa các cấp toà án trong hoạt động xét xử.

Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của viện kiểm sát nhân dân theo hướng bảo đảm thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Nghiên cứu hướng tới chuyển thành viện công tố. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa trinh sát, điều tra ban đầu với hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra.

3.2.3. Tăng cường ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất quy định của Bộ luật hình sự năm 2015

Cần phải thể chế hoá kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng, cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

Xem tất cả 98 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí