Một Số Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Áp Dụng Các Quy Định Của Bộ Luật Hình Sự Về Tội Cưỡng Đoạt Tài Sản

quan của người phạm tội về giá trị tài sản chiếm đoạt hoặc người phạm tội chỉ thừa nhận muốn cướp tài sản có giá trị nhỏ hơn giá trị thực tế dựa trên kết quả của hành vi chiếm đoạt cũng sẽ được áp dụng thống nhất và hiệu quả hơn.

Bên cạnh đó, về lâu dài, để tránh tình trạng trị giá của tài sản bị chiếm đoạt hoặc tài sản người phạm tội định chiếm đoạt bị lạc hậu so với sự phát triển kinh tế cũng như mức sống chung của xã hội, đáp ứng được đòi hỏi của thực tế mà không cần phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung trong một thời gian dài, giữ được sự ổn định về tình quy phạm của điều luật, có thể quy định giá trị của tài sản bị chiếm đoạt hoặc định chiếm đoạt theo mức lương tối thiểu do nhà nước quy định.

Thứ ba, tình tiết phạm tội nhiều lần không được quy định trực tiếp trong Điều 135 BLHS năm 1999 với tính chất là tình tiết định khung tăng nặng mà chỉ được xem xét với tính chất là tình tiết tăng nặng TNHS nếu hành vi cưỡng đoạt tài sản thỏa mãn các dấu hiệu quy định tại Điều 48 BLHS năm 1999, vì vậy trường hợp bị cáo phạm tội cưỡng đoạt tài sản nhiều lần nhưng không thể áp tình tiết này tương ứng với dấu hiệu khung tăng nặng hình phạt để quyết định hình phạt.

Phạm tội nhiều lần thể hiện sự nguy hiểm của người phạm tội cho xã hội, phạm tội nhiều lần để lại hậu quả lớn hơn cho xã hội so với những trường hợp thông thường, thể hiện sự thiếu hiệu quả trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội. Việc đưa ra tình tiết này trở thành một dấu hiệu định khung là cần thiết nhằm đáp ứng đầy đủ hơn hiệu quả của sự phân hóa TNHS, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật. Trong BLHS năm 1999, tình tiết "Phạm tội nhiều lần" là tình tiết định khung hình phạt quy định trong rất nhiều tội cụ thể như: điểm c khoản 1 Điều 104 về tội "Cố ý gây thương tích…"; điểm d khoản 2 Điều 111 về tội "Hiếp dâm"; điểm c khoản 3 Điều 112 về tội "Hiếp dâm trẻ em"…

Việc dấu hiệu "phạm tội nhiều lần" được quy định trong rất nhiều điều luật đã thể hiện sự quan trọng và cần thiết phải có quy định này.

Phạm tội nhiều lần là phạm từ hai tội trở lên mà những tội ấy được quy định tại cùng một điều luật (hoặc tại cùng một khoản của điều luật) tương ứng trong phần các tội phạm trong BLHS, đồng thời đối với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu TNHS và người phạm tội vẫn chưa bị xét xử.

Thực tiễn công tác xét xử trong thời gian qua cho thấy, trong trường hợp phạm tội nhiều lần các quan hệ xã hội bị xâm hại thường rất đa dạng, với những người phạm tội nhiều lần thể hiện thái độ coi thường pháp luật, phương pháp, thủ đoạn phạm tội được lặp đi lặp lại nhiều lần với tính chất, mức độ nguy hiểm ngày càng cao. Từ đó dẫn tới mức độ gây ra hoặc đe dọa cho các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ cũng ngày càng cao, gây mất an ninh trật tự, ảnh hưởng xấu tới tâm lý của người dân và sự nghiêm minh của pháp luật. Trong trường hợp cưỡng đoạt tài sản nhiều lần, người phạm tội đã ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật hình sự, gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác nhưng không chịu dừng lại và cố tình thực hiện hành vi nhiều lần nữa, điều đó thể hiện thái độ của người phạm tội đối với hành vi và hậu quả do mình thực hiện, thể hiện khả năng giáo dục và cải tạo của người phạm tội là không cao nên đòi hỏi phải có hình phạt thích đáng, dù sức răn đe đối với bản thân người phạm tội đồng thời có tác dụng phòng ngừa chung.

Từ những phân tích trên, theo chúng tôi "phạm tội nhiều lần" nên được quy định thành dấu hiệu định khung của tội cưỡng đoạt tài sản để góp phận làm tăng thêm tính nghiêm minh của pháp luật, phân hóa TNHS sâu sắc hơn, giáo dục người phạm tội qua đó thể hiện được tính hiệu quả của công tác phòng ngừa chung trong xã hội.

b) Hoàn thiện quy định về tội phạm có liên quan đến hành vi cưỡng đoạt tài sản

Việc tìm hiểu và đánh giá đúng các quy định của BLHS về tội cưỡng đoạt tài sản nói chung và các dấu hiệu định khung của tội cưỡng đoạt tài sản

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

theo quy định của BLHS năm 1999 nói riêng có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lý luận cũng như thực tiễn áp dụng luật hình sự, qua đó là cơ sở vững chắc để đánh giá tính chất mức độ thực hiện tội phạm và là cơ sở để truy cứu TNHS cũng như buộc người phạm tội phải chịu TNHS về hành vi phạm tội của mình.

Chúng tôi cho rằng, để đảm bảo hành vi phù hợp với tội danh và hình phạt, BLHS cần quy định một chế tài mới để xử lý hành vi "xiết nợ" với các dấu hiệu như tội cưỡng đoạt tài sản nhưng nhằm mục đích lấy lại tài sản đã cho vay.

Tội cưỡng đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam - 12

Cụ thể là: có thể nghiên cứu quy định hành vi xiết nợ là một tội phạm cụ thể với cấu thành gần giống với tội cưỡng đoạt tài sản, hoặc quy định hành vi "xiết nợ" thành một cấu thành tăng nặng TNHS của tội cưỡng đoạt tài sản. Tuy nhiên, xác định rõ chủ thể và các hành vi khách quan cho phù hợp với tính chất của tội phạm, vừa bảo đảm quyền lợi của người cho vay, vừa có tác dụng đấu tranh phòng và chống tình trạng cho vay, mượn, thu hồi tài sản không đúng quy định của pháp luật, đẩy lùi sự can thiệp của các thành phần bất hảo, xã hội đen tham gia vào giải quyết các giao dịch dân sự.


3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

3.3.1. Tăng cường công tác hướng dẫn, giải thích các quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành trong tương quan với các văn bản pháp luật khác về tội cưỡng đoạt tài sản

Bộ luật Hình sự năm 1999 là công cụ sắc bén và hữu hiệu của Nhà nước ta trong việc quản lý xã hội, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, đáp ứng những yêu cầu mới của đất nước. Đồng thời đánh dấu một bước quan trọng trong việc bổ sung, hoàn thiện pháp luật hình sự nước ta. Từ khi có BLHS công tác áp dụng pháp luật hình sự nói chung và quy định của pháp

luật hình sự về dấu hiệu định khung tội cưỡng đoạt tài sản nói riêng đã được cụ thể hóa đi vào thực tiễn với hiệu quả cao.

Tuy nhiên để hoàn thiện về mặt nội dung quy định của pháp luật cũng như công tác áp dụng vào thực tiễn đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần tiếp tục ra soát các văn bản cũng như tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng đối với các cơ quan tiến hành tố tụng để việc áp dụng các quy định pháp luật hình sự nêu trên đạt hiệu quả cao nhất. Cần tăng cường công tác nghiên cứu hoạt động áp dụng pháp luật trong lĩnh vực pháp luật hình sự nói chung và quy định của pháp luật hình sự về dấu hiệu định khung của tội cưỡng đoạt tài sản nói riêng nhằm phâp tích bản chất của hoạt động phạm tội cũng như yếu tố ảnh hưởng đến quá trình áp dụng thực tế. Từ những đánh giá, nhận xét về thực tế áp dụng pháp luật đó sẽ đưa ra đề xuất nhằm cải thiện hoạt động áp dụng pháp luật được hiệu quả hơn. Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyển lực nhà nước, được thực hiện thông qua những cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc các tổ chức xã hội khi được Nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể, do đó việc có những quy định cụ thể để đưa vào thực tiễn thông qua hoạt động áp dụng pháp luật là điều vô cùng cần thiết.

Hiện nay hệ thống văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự nói chung, áp dụng dấu hiệu định khung của tội cưỡng đoạt tài sản ở nước ta nói riêng vẫn còn những tồn tại để đáp ứng nhu cầu thực tiến luôn biến động của loại tội phạm này, tính khả thi của pháp luật còn thấp. Việc khắc phục những tồn tại này còn khá chậm chạp. Thực trạng trên đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tăng cường các văn bản hướng dẫn áp dụng đối với tội cưỡng đoạt tài sản cả về số lượng và chất lượng, quy định cụ thể, chi tiết, thống nhất, khoa học, chặt chẽ và logic để đáp ứng tốt yêu cầu đặt ra.

Trên thực tế hiện nay, việc áp dụng pháp luật về dấu hiệu định khung của tội cưỡng đoạt tài sản đang gặp những khó khăn. Ví dụ: trong nhiều

trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng còn băn khoăn trong việc áp dụng tình tiết định khung hình phạt khi hành vi phạm tội cướp có dấu hiệu "phạm tội nhiều lần" trong trường hợp này cùng với việc áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS có được áp dụng thêm tình tiết định khung hình phạt "phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng", đây là vấn đề cần được hướng dẫn để việc áp dụng trong thực tế được thống nhất hơn.

3.3.2. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân

Nhằm mục đích đảm bảo nguyên tắc pháp chế trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, mọi công dân đều có quyền và nghĩa vụ tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay cho thấy, không chỉ ở các khu vực thành thị, vùng kinh tế phát triển mà cả ở vùng sâu, vùng xa, nhất là các vùng kinh tế - xã hội còn lạc hậu tội phạm này có xu hướng càng gia tăng. Thực tế cho thấy, tội phạm nói chung và tội phạm cưỡng đoạt tài sản nói riêng lại có chiều hướng phát triển tỷ lệ thuận với sự phát triển về kinh tế và đời sống của con người.

Bởi vậy để giảm bớt các tội phạm, Nhà nước và xã hội phải thường xuyên tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đến mọi tầng lớp nhân dân qua nhiều hình thức, cách thức khác nhau, để cho tất cả người dân đều hiểu biết pháp luật, một mặt tránh vi phạm pháp luật hay phạm tội, mặt khác cũng nâng cao ý thức, trách nhiệm của bản thân trước nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn và bảo vệ an ninh trật tự, an toàn xã hội. Để làm tốt công việc này, theo chúng tôi cần thực hiện những nội dung cụ thể sau:

Một là, tăng cường các biện pháp tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách pháp luật của Nhà nước về phòng chống tội phạm nói chung và tội cưỡng đoạt tài sản nói riêng thông qua các câu lạc bộ pháp luật, các cuộc thi tìm hiểu pháp luật ở tất cả các cấp, thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng ở Trung ương và địa phương.

Hai là, tăng cường xét xử lưu động, xét xử công khai các vụ án về cưỡng đoạt tài sản nói riêng nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Ba là, phát động quần chúng nhân dân tham gia phát hiện, tố giác tội phạm, cảm hóa giáo dục người phạm tội tại cộng đồng dân cư, vận động người phạm tội ra tự thú, khai báo thành khẩn, truy bắt đối tượng phạm tội có lệnh truy nã; thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ khen thưởng, biểu dương kịp thời, hỗ trợ để khuyến khích, động viên tất cả quần chúng, nhân dân tham gia phong trào toàn dân đấu tranh phòng chống tội phạm.

3.3.3. Phối hợp các cơ quan, tổ chức với các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án để phòng ngừa, ngăn chặn và xét xử nghiêm minh tội cưỡng đoạt tài sản

Đảm bảo chất lượng của các hoạt động tư pháp là một yêu cầu hết sức quan trọng trong công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án. Trong thời gian qua, các cơ quan tư pháp đã có nhiều cố gắng để chất lượng giải quyết công việc ngày càng nâng lên nhưng vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu. Vẫn còn trường hợp bản án, quyết định vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc áp dụng pháp luật có sai lầm nghiêm trọng do lỗi chủ quan của Tòa án.

Tăng cường nâng cao năng lực cán bộ để đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế là một đòi hỏi cấp bách trong tình hình hiện nay. Cần coi trọng việc đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng tiến hành tố tụng, giải quyết các vụ án là nhiệm vụ quan trọng của toàn hệ thống các cơ quan tư pháp, quan tâm hơn nữa đến việc tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực về nghiệp vụ, trình độ chính trị cho các cán bộ của ngành.

Do số lượng các vụ án phải thụ lý và giải quyết ngày càng tăng và dự báo thời gian tới nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng vào các mối quan hệ quốc tế, kinh tế xã hội ngày càng phát triển thì số lượng án thụ lý càng tăng nhanh; vì vậy, các cơ quan tư pháp cần rà soát, đánh giá dự báo đúng tình hình để xây dựng đề án, chính sách cụ thể để thu hút, tuyển dụng cán bộ cho các đơn vị.

Nhìn tổng thể, số lượng và chất lượng đội ngũ công chức ngành tư pháp chưa thực sự ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, đặc biệt là đối với những đơn vị ở vùng cao, miền núi, hải đảo…, đội ngũ cán bộ tư pháp cơ sở nhiều nơi còn mỏng, chuyên môn, nghiệp vụ còn nhiều hạn chế trong khi nguồn tuyển dụng lại thiếu đa dạng, chính sách cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu thu hút được người tài. Cùng với việc củng cố, tăng cường hệ thống, bộ máy của tòa án, viện kiểm soát và cơ quan điều tra, vấn đề đào tạo, nâng cao nhận thức, chất lượng và trách nhiệm của đội ngũ các chức danh những người tiến hành tố tụng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Hiện nay đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ công tác tư pháp còn thiếu về số lượng, không đồng đều về trình độ làm nhiệm vụ công tác tư pháp còng thiếu về số lượng, không đồng đều về trình độ, chưa đáp ứng được yêu cầu công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Một số cán bộ còn thiếu trách nhiệm, sa sút về phẩm chất, thậm chí có người còn vi phạm pháp luật làm giảm lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan tư pháp. Do đó cần tăng cường kiểm tra để kịp thời phát hiện ngăn ngừa những tiêu cực xảy ra trong cơ quan tư pháp, xử lý nghiêm những cán bộ sai phạm. Cần đề ra các biện pháp tích cực để tập trung chỉ đạo, hướng dẫn áp dụng đúng quy định của pháp luật trong công tác; cần tổ chức kiểm điểm rút kinh nghiệm, làm rõ các nguyên nhân của những vấn đề chưa đạt yêu cầu, các quyết định bị sửa, hủy, từ đó xác định trách nhiệm cá nhân và tìm ra biện pháp khắc phục ngày những thiếu sót, khuyết điểm dù là nhỏ trong công tác chuyên môn, nghiệp vụ.

Để đảm bảo các mục tiêu trên công tác đào tạo cán bộ cũng phải được chú trọng đúng mức để có thể hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn, tránh xảy ra oan sai trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự nói chung và tội cưỡng đoạt tài sản nói riêng. Cụ thể cần: Đổi mới cơ chế tuyển dụng, bố trí, sử dụng, quy hoạch, chế độ đãi ngộ thu hút những người có trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức vào làm việc trong ngành. Nâng cao chất lượng đào tạo luật, đào tạo nghề, nhất là các chức danh thẩm phán, kiểm sát viên, luật

sư, công chứng viên, chấp hành viên, từng bước mở rộng quy mô đào tạo phù hợp với nhu cầu xã hội và năng lực của các cơ sở đào tạo; đổi mới chương trình, giáo trình, tài liệu cho sát với yêu cầu thực tiễn, tăng cường trang bị kiến thức thực tiễn, rèn luyện phương pháp, kỹ năng xử lý tình huống thực tiễn; thực hiện mạnh mẽ các biện pháp khắc phục tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích; tiêu chuẩn hóa đội ngũ giảng viên, đồng thời có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng của đội ngũ này.

3.3.4. Tăng cường quan hệ phối hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan

Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa - Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một trong những chủ trương lớn và nhiệm vụ cấp bách của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Trong Nhà nước pháp quyền, quyền tư pháp làm một bộ phận của quyền lực nhà nước luôn gắn với bó chặt chẽ với quyền lập pháp và quyền hành pháp trong tổng thể quyền lực nhà nước thống nhất và giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Quyền tư pháp được thực hiện thông qua hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó hoạt động xét xử của TAND thể hiện tập trung nhất, thể hiện nên công lý, sự công bằng và bình đẳng của các chủ thể trước pháp luật. Vì vậy, mục tiêu của chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta đền năm 2020 đã được nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị là: "xây dựng nền tư pháp trong sạch vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao" [12]. Hoạt động tố tụng hình sự có ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền của con người, ảnh hưởng đến việc bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và các lợi ích khác của Nhà nước, của các tổ chức, cá nhân. Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định mối quan hệ phối hợp và quan hệ chế

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 07/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí