Thiết Sót, Hạn Chế Trong Định Tội Danh Và Quyết Định Hình Phạt


* Một số vụ án điển hình sau:

Ví dụ 1: Bản án số 55/2018/HS-PT ngày 16/03/2018 về tội chống người thi hành công vụ của TAND tỉnh Đồng Nai (Bản án hình sự sơ thẩm số 478/2017/HSST ngày 17 tháng 11 năm 2017 của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai)

Nội dung vụ án: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 05/8/2017, Công an phường H nhận được tin báo Nguyễn Hữu D và Nguyễn Hữu P (sinh năm 1994, cùng cư trú tại khu phố M, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai) có hành vi sử dụng ma túy gây mất an ninh trật tự. Ban lãnh đạo Công an phường H phân công tổ công tác gồm: Anh Đỗ Văn T (cán bộ Công an phường), anh Trần Văn M, anh Nguyễn Hoàng Minh L, anh Nguyễn Huy H, anh Nguyễn Quốc H (bảo vệ dân phố) đến giải quyết. Đến nơi, anh T kiểm tra phát hiện trong túi quần của P có 01 bịch nylon chứa thảo mộc khô (P khai là cỏ mỹ, P vừa sử dụng) nên anh T lập biên bản thu giữ và yêu cầu P về trụ sở Công an phường H để làm việc nhưng P không chấp hành. Anh T yêu cầu anh M, anh L, anh Nguyễn Huy H, anh Nguyễn Quốc H khống chế đưa P về trụ sở; khi anh M giữ tay P dẫn ra cửa phòng khách nhà ông B, P chống đối vùng vẫy thoát ra khỏi tay anh M, rồi dùng tay đấm trúng mặt và dùng chân đạp trúng hông anh T. Sau đó, tổ công tác khống chế đưa P về Công an phường H lập biên bản phạm tội quả tang đồng thời giao Công an thanh phố Biên Hòa xử lý. Vật chứng thu giữ: 01 túi nylon màu trắng bên trong có chứa thảo mộc khô (đã được niêm phong – ký hiệu M). Tại bản Kết luận giám định số 315/PC54 – GĐMT ngày 10/9/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận: “Mẫu M được niêm phong gửi đến giám định có trọng lượng 1,071 gam có AB – FUBINACA không nằm trong danh mục các chất ma túy và tiền chất ban hành kèm theo Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 và Nghị định số 126/2015/NĐ-CP của Thủ tướng chính phủ”.


Tại bản án hình sự sơ thẩm số 478/2017/HSST ngày 17 tháng 11 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu P phạm tội “Chống người thi hành công vụ”. Áp dụng khoản 1 Điều 257; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47 BLHS. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hữu P 05 (năm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt vào trại chấp hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 05/8/2017 đến ngày 11/8/2017. Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo luật định. Ngày 24/11/2017, bị cáo Nguyễn Hữu P kháng cáo xin cho bị cáo hưởng án treo. Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, xin được hưởng án treo. Tại cấp phúc thẩm thì TAND tỉnh Đồng Nai đã giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Nhận xét: Thông qua vụ án trên có thể TAND hai cấp tỉnh Đồng Nai đã định tội danh và quyết định hình phạt đối với hành vi phạm tội của Nguyễn Hữu P là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

- Về định tội danh:

+ Về khách thể: Hành vi anh chống đối của P đã xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ của người đang thi hành công vụ là anh T và thông qua đó xâm phạm đến hoạt động bình thường, đúng đắn, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính của cơ quan nhà nước.

+ Về chủ thể: Nguyễn Hữu P là người trên 18 tuổi, có khả năng nhận thức và điều hiển hành vi của mình nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 93 trang tài liệu này.

+ Về mặt chủ quan: P thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, P nhận thức rò hành vi chống đối của mình là trái pháp luật, nhưng vẫn thực hiện.

+ Về mặt khách quan: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 05/8/2017 tại khu phố M, phường H, thành phố B, P đã có hành vi dùng tay đấm trúng mặt và dùng chân đạp trúng hông anh T khi anh T đang thi hành công vụ.

Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai - 6


Do đó, Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đồng Nai đã định tội danh bị cáo về tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 257 BLHS năm 1999 là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

- Về quyết định hình phạt:

Trong vụ án này, khi quyết định hình phạt, TAND hai cấp tỉnh Đồng Nai đã căn cứ QĐHP như sau:

+ Về căn cứ quy định của BLHS: Hành vi chống người thi hành công vụ của P đã phạm vào khoản 1 Điều 257 BLHS năm 1999 với khung hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

+ Về căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Tội phạm do P thực hiện đã trực tiếp xâm phạm tới trật tự quản lý hành chính, hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước thống qua việc tác động đến anh T là người đang thi hành công vụ.

+ Về căn cứ vào nhân thân người phạm tội: P có nhân thân tốt, không có tiền án, tiến sự.

+ Về căn cứ vào tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS: P thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; hoàn cảnh gia đình khó khăn; trình độ học vấn thấp, nhận thức pháp luật còn hạn chế nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46.

Căn cứ vào các lý do trên, TAND hai cấp tỉnh Đồng Nai đã áp dụng Điều 47 BLHS xử phạt bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt tù, vì P có hai tình tiết giảm nhẹ là h, p khoản 1 Điều 46 và khoản 2 Điều 46, phạt Nguyễn Hữu P 05 (năm) tháng tù là có căn cứ và đúng pháp luật.

Ví dụ 2: Bản án số 99/2018/HS-PT ngày 14/05/2018 về tội chống người thi hành công vụ của TAND tỉnh Đồng Nai (Bản án sơ thẩm số 47/2018/HS-ST ngày 31/01/2018 của TAND thành phố Biên Hòa).


Nội dung vụ án: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 27 tháng 10 năm 2017, tổ tuần tra cảnh sát giao thông Công an thành phố Biên Hòa gồm anh Bùi Đức T, anh Phạm Xuân D, anh Phạm Hoàng T (đều mặc sắc phục ngành) đang tuần tra kiểm soát tại đường Vò Thị S thuộc khu phố 1, phường N, thành phố

H. Anh T phát hiện Nguyễn Lý Duy Q điều khiển xe môtô biển số 60K2-4571 chở phía sau anh Phạm Văn S, xe môtô biển số 60K2-4571 không có gương chiếu hậu nên anh T bước xuống lòng đường ra hiệu lệnh yêu cầu Q dừng xe để kiểm tra xử lý. Q không chấp hành mà điều khiển xe môtô biển số 60K2-4571 tăng tốc tông thẳng vào người anh T làm anh T cùng Q ngã xuống đường. Q bỏ chạy thì bị tổ tuần tra cùng quần chúng nhân dân bắt giữ, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Anh T bị rách quần, thương tích bàn tay phải, đầu gối trái nhưng từ chối giám định thương tích. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 47/2018/HS-ST ngày 31 tháng 01 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa đã quyết định: Tuyên bị cáo Nguyễn Lý Duy Q phạm tội “Chống người thi hành công vụ”. Áp dụng khoản 1 Điều 257 BLHS năm 1999; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Lý Duy Q 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án và được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/10/2017 đến ngày 02/11/2017. Ngày 09/02/2018, bị cáo Nguyễn Lý Duy Q nộp đơn kháng cáo xin hưởng án treo. Tại cấp phúc thẩm, TAND tỉnh Đồng Nai đã giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Nhận xét: Tương tự với vụ án trên, trong vụ này TAND hai cấp tỉnh Đồng Nai đã định tội danh và quyết định phạt đối với hành vi của Lý Duy Q là đúng người, đúng tội và tuân thủ đúng các yếu tố của định tội danh và quyết định hình phạt.

- Về định tội danh:

+ Về khách thể: Hành vi anh chống đối của Q đã xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ của người đang thi hành công vụ là anh T và thông qua đó


xâm phạm đến hoạt động bình thường, đúng đắn, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính của cơ quan nhà nước.

+ Về chủ thể: Lý Duy Q là người trên 18 tuổi, có khả năng nhận thức và điều hiển hành vi của mình nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội.

+ Về mặt chủ quan: Q thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, P nhận thức rò hành vi chống đối của mình là trái pháp luật, nhưng vẫn thực hiện.

+ Về mặt khách quan: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 27 tháng 10 năm 2017 tại đường Vò Thị S thuộc khu phố 1, phường N, thành phố H, Q đã không chấp hành hiệu lệnh dừng xe của anh T mà điều khiển xe môtô tăng tốc tông thẳng vào người anh T làm anh T bị rách quần, thương tích bàn tay phải, đầu gối trái khi anh T đang thi hành công vụ.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 257 BLHS năm 1999 là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

- Về quyết định hình phạt:

Trong vụ án này, khi quyết định hình phạt, TAND hai cấp tỉnh Đồng Nai đã căn cứ QĐHP, như sau:

+ Về căn cứ quy định của BLHS: Hành vi chống người thi hành công vụ của Q đã phạm vào khoản 1 Điều 257 BLHS năm 1999 với khung hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

+ Về căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Tội phạm do bị cáo thực hiện đã trực tiếp xâm phạm tới trật tự quản lý hành chính, hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước thống qua việc tác động đến anh Q là người đang thi hành công vụ.

+ Về căn cứ vào nhân thân người phạm tội: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiến sự.


+ Về căn cứ vào tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS: Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ gồm: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được quy định tại các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015.

Do vậy, TAND hai cấp tỉnh Đồng Nai đã quyết định mức hình phạt bị cáo mức án 06 (sáu) tháng tù là có căn cứ, phù hợp và đúng pháp luật.

Ví dụ 3: Bản án số 217/2020/HS-PT ngày 12/06/2020 về tội chống người thi hành công vụ của TAND tỉnh Đồng Nai (Bản án hình sự sơ thẩm số: 07/2020/HS-ST, ngày 17 tháng 02 năm 2020 của TAND huyện Vĩnh Cửu)

Nội dung vụ án: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 21/3/2019, đoàn cưỡng chế thuộc Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Cửu đến thửa đất số 58, tờ bản đồ số 216 của ông Đặng Văn H, tại xã Thiện Tân, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai để cưỡng chế thu hồi phục vụ cho xây dựng đường dây 500KV. Do không đồng ý với quyết định bồi thường và thu hồi đất của Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Cửu nên gia đình ông H ngăn cản không cho đoàn cưỡng chế thực thi nhiệm vụ. Đến khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, đoàn cưỡng chế đang đào hố móng thi công công trình xây dựng thì Đặng Ngọc B là em trai của ông H về nhà lấy một ná cao su, cán bằng gỗ, dài 17cm, dây ná bằng cao su màu vàng, mỗi dây dài 27cm, rộng 1,2cm, một đầu dây được gắn cố định vào thân ná, đầu còn lại gắn cố định vào miếng da màu đen, kích thước 10cm x 2,5cm và khoảng 70 viên bi bằng kim loại, màu đen, đường kính 01cm - 1,5cm, quay lại khu vực đang thực hiện cưỡng chế. B dùng chạng ná bắn 03 phát trúng vào máy đào (máy cuốc) đang thi công làm vỡ kính chắn gió của máy cuốc. Thấy vậy, đồng chí Lê Hoàng L1, là cán bộ Công an huyện Vĩnh Cửu tham gia bảo vệ an ninh trật tự tại khu vực theo kế hoạch của Công an huyện Vĩnh Cửu đến can ngăn và khống chế B thì B dùng chạng ná bắn viên bi sắt trúng vào vùng cổ đồng chí L1 gây thương tích. Sau đó Đặng Ngọc B bị lực lượng chức năng


khống chế đưa về Công an xã giải quyết. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 07/2020/HS-ST, ngày 17 tháng 02 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Đặng Ngọc B phạm tội “Chống người thi hành công vụ”; căn cứ khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 của BLHS năm 2015 tuyên bố: Bị cáo Đặng Ngọc B phạm tội “Chống người thi hành công vụ”. Xử phạt: Bị cáo Đặng Ngọc B 05 (Năm) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt đi thi hành án. Tại cấp phúc thẩm thì TAND tỉnh Đồng Nai đã không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Đặng Ngọc B. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 07/2020/HS-ST.

Nhận xét: Tương tự với vụ án trên, trong vụ này TAND hai cấp tỉnh Đồng Nai đã định tội danh và quyết định phạt đối với hành vi của Đặng Ngọc B là đúng người, đúng tội và tuân thủ đúng các yếu tố của định tội danh và quyết định hình phạt.

- Về định tội danh:

+ Về khách thể: Hành vi anh chống đối của B đã xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ của người đang thi hành công vụ là anh Lê Hoàng L1 và thông qua đó xâm phạm đến hoạt động bình thường, đúng đắn, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính của cơ quan nhà nước.

+ Về chủ thể: Đặng Ngọc B là người trên 18 tuổi, có khả năng nhận thức và điều hiển hành vi của mình nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội.

+ Về mặt chủ quan: B thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, B nhận thức rò hành vi chống đối của mình là trái pháp luật, nhưng vẫn thực hiện.

+ Về mặt khách quan: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 21/3/2019 tại xã Thiện Tân, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, B dùng chạng ná bắn viên bi sắt trúng vào vùng cổ anh L1 gây thương tích khi L1 đang thực hiện công vụ.


Do đó, Tòa án hai cấp tỉnh Đồng Nai xét xử bị cáo về tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 BLHS năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

- Về quyết định hình phạt:

Trong vụ án này, khi quyết định hình phạt, TAND hai cấp tỉnh Đồng Nai đã căn cứ QĐHP như sau:

+ Về căn cứ quy định của BLHS: Hành vi chống người thi hành công vụ của B đã phạm vào khoản 1 Điều 330 BLHS năm 2015 với khung hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

+ Về căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Bị cáo biết việc cưỡng chế, xe cuốc vào đào móng thi công công trình nhưng vẫn cố ý dùng ná cao su bắn vỡ kính chắn gió; đồng chí Lê Hoàng L1 là cán bộ được phân công nhiệm vụ tham gia bảo vệ đoàn cưỡng chế đến ngăn cản nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi chống đối, dùng ná cao su bắn vào người.

+ Về căn cứ vào nhân thân người phạm tội: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiến sự.

+ Về căn cứ vào tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS: Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ gồm: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được quy định tại các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Do vậy, TAND hai cấp tỉnh Đồng Nai đã áp dụng Điều 54 quyết định mức hình phạt bị cáo mức án 05 (năm) tháng tù là có căn cứ, phù hợp và đúng pháp luật.

2.2.2. Thiết sót, hạn chế trong định tội danh và quyết định hình phạt

2.2.2.1. Định tội danh không đúng với hành vi phạm tội

Xem tất cả 93 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí