Quy Định Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam Từ Khi Ban Hành Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2003 Liên Quan Tới Bảo Đảm Quyền Con Người Của Người Bị

được quy định một cách đầy đủ, rò ràng; các thủ tục tố tụng chưa thể hiện đầy đủ cơ chế tố tụng và bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân, quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật v.v…

2.1.2. Quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ khi ban hành bộ luật tố tụng hình sự 2003 liên quan tới bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do

2.1.2.1. Quy định các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự với bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do

Hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS được quy định từ điều 3 tới điều 32 BLTTHS, ở những cấp độ khác nhau đều thể hiện tinh thần bảo vệ QCN với hai định hướng: Xử lý nhanh chóng, kịp thời đúng pháp luật đối với tội phạm xâm phạm QCN và đảm bảo không làm ảnh hưởng tới QCN khi tiến hành tố tụng trong đó vấn đề bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do được thể hiện rò nét ở các nguyên tắc sau:

Nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ các quyền cơ bản của công dân:

Theo quy định tại điều 4 BLTTHS khi tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu thấy có căn cứ. Nội dung nguyên tắc này thể hiện ở hai phương diện:

Một là, khi tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng phải tôn trọng, bảo vệ các quyền cơ bản của công dân được quy định trong chương 2 hiến pháp năm 2013, bất kể người đó là ai, thuộc thành phần xuất thân, địa vị, giới tính nào… Trong từng quan hệ pháp luật cụ thể, họ có quyền và nghĩa vụ như nhau, đều bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế của luật TTHS.

Hai là, người tiến hành TTHS phải thường xuyên kiểm tra việc áp dụng các biện pháp của TTHS, kịp thời huỷ bỏ nếu xét thấy có căn cứ như phát hiện vi phạm pháp luật hoặc thấy không cần thiết nữa. Việc áp dụng các biện pháp nghiệp vụ cũng không được xâm phạm các quyền cơ bản của công dân. Đây là hai mặt thống nhất của nguyên tắc này.

Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật (Điều 5 Bộ luật TTHS)

TTHS tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật. Nội dung nguyên tắc này bao gồm: a) Khi tham gia TTHS mọi người đều có quyền và nghĩa vụ như nhau; b) Bất kỳ ai có hành vi phạm tội đều phải chịu TNHS theo các điều, khoản của BLHS; c) Quá trình giải quyết đối với bất kỳ vụ án nào cũng đều phải theo một trình tự, thủ tục thống nhất theo quy định của pháp luật TTHS.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.

Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân (Điều 6; Điều 8 Bộ luật TTHS)

Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, chỗ ở, an toàn, bí mật thư tín, điện thoại điện tín là những quyền tự do cá nhân quan trọng nhất của con người được ghi nhận tại các điều 20,21,22 Hiến pháp năm 2013. Luật TTHS coi việc bảo vệ và tôn trọng các quyền đó của công dân là những nguyên tắc cơ bản trong toàn bộ quá trình THTT giải quyết vụ án. Nội dung của nguyên tắc này như sau:

Bảo đảm quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - 8

Không ai có thể bị bắt nếu không có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát. Khi áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam phải tuân theo quy định của Bộ luật TTHS về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục trình tự của các biện pháp đó. Mọi trường hợp làm trái đều là vi phạm pháp luật và tuỳ theo mức độ người vi phạm có thể bị truy cứu TNHS. Trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp điều tra thu thập chứng cứ không được dùng nhục hình, bức cung, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của những tham gia tố tụng. Những trường hợp sử dụng biện pháp đó đều bị coi bất hợp pháp và tuỳ mức độ mà người vi phạm có thể bị truy cứu TNHS;

Không ai được xâm phạm chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân. Trong quá trình THTT chỉ được áp dụng biện pháp khám người, chỗ ở, đồ vật, thư tín, điện thoại, điện báo... khi có căn cứ pháp luật và đúng quy định về thẩm quyền, thủ tục, trình pháp luật. Việc vi phạm quyền bất khả xâm phạm

về chỗ ở của công dân (khám xét trái phép chỗ ở của công dân...) hoặc hành vi phạm về bí mật, an toàn thư tín, điện tín, điện thoại của công dân (Chiếm đoạt, khám xét, thu giữ... thư tín, điện tín, điện thoại của công dân) tuỳ mức độ có thể bị truy cứu TNHS.

Nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân

Theo quy định của Hiến pháp thì tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản được nhà nước bảo hộ. Điều 7 Bộ luật TTHS nguyên tắc này với các nội dung: Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản; mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật; người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền THTT phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật.

Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự

Theo quy định tại điều 9 Bộ luật TTHS thì không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực của toà án. Nguyên tắc này cho thấy chỉ Toà án - cơ quan xét xử, duy nhất của Nhà nước ta mới có quyền nhân danh Nhà nước, phán quyết một người có tội hay không, nếu có tội thì phải ra một bản án. Mặt khác, đây là một quy định pháp lý khách quan nhằm xác định tinh thần, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng phải thật vô tư, khách quan khi giải quyết vụ án hình sự. Rò ràng, khi các chủ thể này ra một quyết định tố tụng thì trong suy nghĩ của họ, người bị áp dụng quyết định đó đã bị nghi là người thực hiện hành vi phạm tội nhưng luật TTHS vẫn quy định buộc họ phải đối xử với người đó như một con người, một công dân. Có như vậy, việc giải quyết vụ án hình sự mới đúng đắn, mới tìm ra chân lý khách quan của vụ án hình sự.

Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo

Điều 11 BLTTHS quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan tiến hành tố tụng có nhiệm vụ bảo đảm cho các chủ thể này thực hiện quyền bào chữa của mình.

Quyền bào chữa là quyền đưa ra những thông tin chứng minh rằng không có tội hoặc có tội nhưng có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đây là một nguyên tắc thể hiện tính xã hội, nhân đạo sâu sắc. Theo nguyên tắc này, khi một người bị khởi tố bị can, có quyết định tạm giữ thì người đó có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân, người đại diện hợp pháp của mình bào chữa. Thậm chí nguyên tắc này còn là bắt buộc trong trường hợp người đó bị truy cứu trách nhiệm hình sự với hình phạt tử hình hoặc bị nhược điểm về thể chất, tâm thần, người chưa thành niên. Nhiệm vụ bắt buộc của các cơ quan tiến hành TTHS là thực hiện những bảo đảm cần thiết cho việc bào chữa như giao quyết định khởi tố, kết luận điều tra, cáo trạng cho người bào chữa, mời người bào chữa trong trường hợp bắt buộc…

Nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng hình sự

Một trong những yêu cầu đầu tiên đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự đúng đắn là những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng phải hoàn toàn vô tư. Do vậy, theo quy định tại điều 14 BLTTHS, những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng không được tham gia tố tụng nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình.

Áp dụng nguyên tắc này sẽ góp phần đảm bảo sự khách quan khi giải quyết vụ án hình sự. Thông qua đó, chân lý của vụ án được làm sáng tỏ. Đây cũng chính là sự bảo đảm QCN trong TTHS.

Nguyên tắc đảm bảo quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự quyền lợi của người bị oan

Điều 29 BLTTHS quy định người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự quyền lợi. Cơ quan có thẩm quyền trong TTHS đã làm oan phải bồi thường thiệt hại, phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan. Người đã gây thiệt hại phải bồi hoàn cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Nguyên tắc này quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc giải quyết vấn đề làm oan trong TTHS, tức là giải quyết hậu quả của việc vi phạm pháp luật từ phía nhà nước. Vì vậy nó

mang tính dân chủ, tính pháp chế sâu sắc. Thông qua nguyên tắc này, công dân bảo vệ được các quyền lợi hợp pháp của mình. Các cơ quan tiến hành TTHS, người tiến hành TTHS phải triệt để tuân theo pháp luật. Chính điều đó góp phần làm cho QCN được bảo đảm trong TTHS.

2.1.2.2. Bảo vệ quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do thông qua các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự các cơ quan THTT được áp dụng nhiều biện pháp cưỡng chế trong đó có biện pháp ngăn chặn. Biện pháp ngăn chặn là chế định pháp lý quan trọng được quy định tại Chương VI Bộ luật TTHS bao gồm các biện pháp: Bắt; tạm giữ; tạm giam; cấm đi khỏi nơi cư trú; bảo lãnh; đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm. Nhằm tránh việc lợi dụng của các cơ quan THTT và người THTT khi áp dụng áp dụng những biện pháp này xâm hại đến QCN Luật TTHS quy định chặt chẽ mục đích, căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng.

Điều 79 BLTTHS quy định chỉ áp dụng biện pháp ngăn chặn với hai mục đích, đó là: 1) Ngăn chặn không cho tội phạm tiếp tục xảy ra gây thiệt hại cho xã hội, không để người phạm tội tiếp tục thực hiện tội phạm hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật; 2) Tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan THTT giải quyết vụ án như không để người phạm tội có thể xóa bỏ dấu vết phạm tội, tiêu huỷ chứng cứ, làm giả chứng cứ, thông cung giữa những người phạm tội hoặc với người làm chứng, đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo, bị án khi có yêu cầu của cơ quan THTT. Ngoài hai mục đích trên biện pháp ngăn chặn không được áp dụng với bất kỳ mục đích nào khác nhất là đối với ý đồ xâm phạm QCN.

Quy định các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam nhằm hạn chế một số quyền của công dân, QCN của người bị bắt. Mục đích của các biện pháp này là để đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, đảm bảo trật tự pháp luật và pháp chế. Các biện pháp ngăn chặn nhằm bảo vệ các QCN, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nhưng khi áp dụng chúng cũng rất dễ tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đến QCN, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bởi vì, một

số hoạt động tố tụng có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do, quyền bất khả xâm phạm về than thể, quyền được thông tin… của người bị bắt. Nắm vững nội dung, thẩm quyền, thủ tục bắt, tạm giữ, tạm giam sẽ bảo đảm cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng áp dụng đúng pháp luật, tránh vi phạm các quy định pháp luật về bảo đảm QCN khi thực thi công vụ.

2.1.2.3. Trình tự khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử nhằm bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do

Quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS chỉ có thể được bảo đảm theo một trình tự giải quyết vụ án hình sự thống nhất, đúng pháp luật.

+ Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự: Là giai đoạn mở đầu của quá trình TTHS trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có căn cứ để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Việc khởi tố vụ án hình sự đối với tội phạm nói chung và các tội xâm phạm quyền công dân có ý nghĩa quan trong trong cơ chế bảo vệ QCN của hệ thống pháp luật nước ta. Chính vì vậy, Bộ luật TTHS quy định căn cứ, cơ sở của việc khởi tố vụ án và không khởi tố vụ án hình sự cũng như thẩm quyền, trình tự, thủ tục ra Quyết định khởi tố vụ án và việc kiểm sát khởi tố vụ án hình sự.

Theo đó, chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm dựa trên một trong các cơ sở quy định tại Điều 100 BLTTHS như: Tố giác của công dân; tin báo của cơ quan, tổ chức; tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; người phạm tội tự thú… Quyết định không khởi tố vụ án hình sự được áp dụng khi có một trong các căn cứ quy định tại điều 107 Bộ luật TTHS như: Không có sự việc phạm tội; hành vi không cấu thành tội phạm; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu TNHS; người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; đã hết thời hiệu truy cứu TNHS;… Quy định này bảo đảm cho các quyền con người được tôn trọng, không bị khởi tố khi không có dấu hiệu tội phạm.

Về thẩm quyền khởi tố: Việc khởi tố vụ án hình sự chỉ giao cho các cơ quan THTT và một số cơ quan quản lý Nhà nước trong một số lĩnh vực nhất định mà không quy định cho tất cả các cơ quan Nhà nước. Quy định như vậy một mặt đảm

bảo sự phân công quyền lực giữa các cơ quan trong Nhà nước XHCN, mặt khác đảm bảo nguyên tắc thận trọng, khách quan trong TTHS, tôn trong QCN.

Điều 103 Bộ luật TTHS quy định nhiệm vụ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc về các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; Điều 104 quy định Quyết định khởi tố vụ án hình sự thuộc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và một số cơ quan khác khác được giao tiến hành một số hoạt động tố tụng. Nhằm đảm bảo quyền tư tố, tự bảo vệ quyền lợi của công dân, BLTTHS quy định các trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại tại Điều 105 ví dụ như các tội quy định tại khoản 1 Điều 104, khoản 1 Điều 105, khoản 1

Điều 106 BLHS.

+ Giai đoạn điều tra vụ án hình sự và truy tố người phạm tội: Giai đoạn điều tra thực chất là quá trình làm sáng tỏ tất cả sự thật khách quan vụ án của Cơ quan điều tra nhằm phục vụ cho việc xử lý tội phạm bảo vệ quyền con người vì vậy các quy định về điều tra của Luật TTHS đều hướng tới mục tiêu này. Để đảm bảo cho việc phát hiện tội phạm, người phạm tội, luật TTHS quy định rò tổ chức, thẩm quyền, thời hạn điều tra, các biện pháp điều tra.

Thời hạn điều tra bao gồm thời hạn điều tra nói chung áp dụng đối với từng loại tội; thời hạn tạm giam điều tra, thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại. Quy định về thời hạn điều tra được xác định rò ràng từ Điều 119 đến Điều 121 BLTTHS. Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra được áp dụng các biện pháp hoạt động điều tra như: Hỏi cung bị can, lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, đối chất, nhận dạng…

Xuyên suốt quá trình điều tra vụ án hình sự, các cơ quan có thẩm quyền điều tra phải tuân thủ quy định của luật TTHS, giải quyết vụ án hình sự phải khách quan toàn diện, đầy đủ. Kết thục điều tra, Cơ quan điều tra phải ra một trong hai quyết định là đề nghị truy tố hoặc đình chỉ điều tra.

Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định việc truy tố nếu xét thấy việc truy tố là có căn cứ pháp luật. Thời hạn quyết định truy tố quy đinh tại điều 166 BLTTHS. Trong trường hợp VKS không đồng ý với đề nghị truy tố thì ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra vụ án.

+ Giai đoạn xét xử vụ án hình sự: Giai đoạn này bắt đầu từ khi tòa án nhận được từ Viện kiểm sát hồ sơ quyết định truy tố người phạm tội trước pháp luật cho đến khi ra bản án quyết định có hiệu lực pháp luật. Để ra được bản án quyết định nói trên, quá trình giải quyết vụ án hình sự có thể trải qua nhiều phiên tòa xét xử của nhiều cấp Tòa án như xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. BLTTHS quy định chặt chẽ thẩm quyền, thủ tục xét xử, các quyết định của Tòa án khi xét xử tại các phần 3, 4, 6 BLTTHS. Trong xét xử hình sự, QCN của bị cáo được thể hiện ở các nội dung chủ yếu là quy định về các nguyên tắc xét xử, quyết định hình phạt, quy định về quyển của bị cáo khi tham gia tố tụng, quy định về quyền, nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng.

2.1.2.4. Quyền của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Quyền của người bị tạm giữ

Người tạm giữ có quyền biết lý do mình bị tạm giữ. Để đảm bảo quyền này của người bị tạm giữ, trong quyết định tạm giữ phải ghi rò lý do tạm giữ và giao cho người bị tạm giữ một bản.

Khi bị tạm giữ người bị tạm giữ được giải thích về quyền và nghĩa vụ của mình. Người thi hành quyết định tạm giữ phải giải thích quyền và nghĩa vụ cho họ.

Người tạm giữ được trình bày lời khai. Việc trình bày lời khai là quyền của người bị tạm giữ, vì vậy cơ quan đã quyết định tạm giữ không được cản trở việc họ trình bày lời khai của mình. Tuy nhiên họ chỉ được trình bày những gì có ý nghĩa trong việc làm rò quan hệ giữa họ và vụ việc xảy ra chứ không phải trình bày tất cả những gì mà họ muốn.

Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Ngay từ khi có quyết định tạm giữ, người bị tạm giữ có quyền nhờ người khác bào chữa cho mình. Cơ quan ra quyết đinh tạm giữ có trách nhiệm cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa của người bị tạm giữ để họ tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi của người bị tạm giữ.

Người bị tạm giữ có quyền đưa ra các tài liệu, đồ vật để chứng minh cho sự vô tội của mình. Việc đưa ra tài liệu, đồ vật là quyền chứ không phải là nghĩa vụ của họ, cho nên không được bắt buộc họ thực hiện các việc đó khi họ không

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 28/06/2022