Dấu Hiệu Đặc Trưng Của Tội Chống Người Thi Hành Công Vụ


+ Thứ hai, người thi hành công vụ phải đang thực hiện một công vụ nhất định. Một người chỉ thực sự là người thi hành công vụ khi đang thực hiện công vụ (hoạt động đúng pháp luật) theo đúng thẩm quyền. Nếu việc thực hiện công vụ chưa bắt đầu hoặc đã kết thúc thì không còn là “đang thực hiện công vụ”.

+ Thứ ba, việc thực hiện công vụ của cá nhân phải đúng pháp luật. Đặc điểm đúng pháp luật này xuất phát từ bản chất của công vụ. Người thi hành công vụ theo đúng nghĩa phải là người thực hiện hoạt động đúng pháp luật cả về nội dung, hình thức và thẩm quyền.

Từ những phân tích trên có thể hiểu: Người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào một vị trí trong cơ quan nhà nước hoặc người khác đang tiến hành các hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án theo đúng pháp luật và đúng thẩm quyền do cơ quan nhà nước giao.

*Khái niệm tội chống người thi hành công vụ

Về khái niệm tội chống người thi hành công vụ cũng được nhiều tác giả đề cập trong các công trình khoa học khác nhau:

Từ điển Luật học định nghĩa: “Chống người thi hành công vụ là (hành

vi) cản trở người thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ của mình bằng thủ đoạn dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc là hành vi cưỡng ép người đó thực hiện hành vi trái pháp luật” [4, tr.143].

Tác giả Đinh Văn Quế có quan điểm: Chống người thi hành công vụ là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật [21, tr.4].

Đồng quan điểm với tác giả Đinh Văn Quế, các tác giả Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng có quan điểm: Chống người thi hành công vụ là hành vi

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 93 trang tài liệu này.


dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật [5, tr.518]

Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai - 3

Nhận xét: Các quan điểm trên đều thống nhất ở nội hàm khái niệm tội chống người thi hành công vụ là đó là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật.

Trong BLHS hiện hành nhà làm luật chưa đưa ra khái niệm pháp lý về tội chống người thi hành công vụ nhưng khái niệm tội phạm đã được ghi nhân tại Điều 8 BLHS, theo đó tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đây là khái niệm pháp lý tương đối hoàn chỉnh về tội phạm, là cơ sở quan trọng để xây dựng khái niệm các tội phạm cụ thể, trong đó có tội chống người thi hành công vụ.

Tội chống người thi hành công vụ là tội phạm được pháp điển hóa lần đầu tiên trong BLHS năm 1985 cho đến nay. Tội này được quy định tại Chương các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính, đó là nhóm các tội xâm phạm đến hoạt động bình thường, đúng đắn, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính của các cơ quan nhà nước, của người thi hành công vụ trong các lĩnh vực quản lý xã hội, trong một số trường hợp còn gây thiệt hại về tính mạng, thiệt hại nghiêm trọng về tài sản của người khác, với hành vi “dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật” [25, Điều 330].

Như vậy, hành vi chống người thi hành công vụ là hành vi cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc cưỡng ép người thi hành công vụ thực hiện hành vi trái pháp luật bằng các thủ đoạn khác nhau


(như dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần), những hành vi này đã xâm phạm đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, làm giảm hiệu lực quản lý của các cơ quan, tổ chức đó và có thể xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của chính người thi hành công vụ. Do vậy, người thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ phải là người nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và mong muốn thực hiện hành vi đó nhằm xâm phạm đến hoạt động bình thường, đúng đắn, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính của người thi hành công vụ nói riêng và của cơ quan nhà nước nói chung.

Từ những nội dung được phân tích trên có thể hiểu, tội chống người thi hành công vụ như sau: Tội chống người thi hành công vụ là hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, bằng cách sử dụng các thủ đoạn khác nhau để cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, do người có năng lực TNHS, đủ độ tuổi theo quy định của pháp luật thực hiện, qua đó xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính được luật hình sự bảo vệ.

1.1.2. Dấu hiệu đặc trưng của tội chống người thi hành công vụ

Từ phân tích tại tiểu mục 1.1.1, có thể rút ra một số dấu hiệu đặc trưng của tội chống người thi hành công vụ, như sau:

Thứ nhất, tội chống người thi hành công vụ xâm phạm hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực hành chính, tố tụng và thi hành án, xâm phạm sự hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, làm giảm hiệu quả quản lý của các cơ quan này. Tội chống người thi hành công vụ xâm hại đến các quan hệ xã hội trên thông qua việc tác động trực tiếp đến người đang thi hành công vụ. Thứ hai, chủ thể của tội chống người thi hành công vụ là chủ thể thường, chỉ đòi hỏi thỏa mãn điều kiện về năng lực trách nhiệm hình sự (đủ


tuổi chịu TNHS theo quy định của luật và không thuộc trường hợp trong tình trạng mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển do mắc bệnh).

Thứ ba, hành vi phạm tội của tội này là hành vi cố ý trực tiếp cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ. Việc cản trở này có thể được thực hiện bằng các thủ đoạn như dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác có khả năng cản trở người thi hành công vụ.

1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội chống người thi hành công vụ

Tội chống người thi hành công vụ được quy định tại Điều 330 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), thuộc Chương các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính, đó là nhóm các tội xâm phạm đến hoạt động bình thường, đúng đắn, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính của các cơ quan nhà nước, của người thi hành công vụ trong các lĩnh vực quản lý xã hội, trong một số trường hợp còn gây thiệt hại về tính mạng, thiệt hại nghiêm trọng về tài sản của người khác. Các dấu hiệu pháp lý của tội danh này được thể hiện, như sau:

* Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại.

Đối với tội chống người thi hành công vụ thì khách thể trực tiếp của tội phạm là hoạt động bình thường, đúng đắn, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính của người thi hành công vụ nói riêng, của cơ quan nhà nước nói chung. Do vậy, hành vi này được quy định nhằm giữ gìn trật tự công cộng, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản của người thi hành công vụ.

Để xâm phạm đến những khách thể này thì, người phạm tội phải tác động vào đối tượng tác động của tội phạm, đây là bộ phận của khách thể, thông qua đối tượng này mà xâm phạm đến khách thể. Đối tượng tác động


của tội phạm này là người đang thi hành công vụ, thông qua việc xâm phạm đến họ mà xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ công.

*Mặt khách quan của tội phạm

Đây là những biểu hiện của tội phạm ra ngoài thế giới khách quan, gồm: hành vi khách quan, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, những yếu tố khác của mặt khách quan như: thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện phạm tội; v.v….

- Về hành vi khách quan: Hành vi khách quan của tội này được thể hiện là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật.

+ Dùng vũ lực được hiểu là hành vi của người phạm tội dùng sức mạnh thể chất (đấm, đá, bóp cổ, sử dụng công cụ, phương tiện như dao, gạch đá…) tác động vào cơ thể của người thi hành công vụ với mục đích cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật.

+ Đe dọa dùng vũ lực được hiểu là sự tác động bằng cử chỉ, lời nói có tính răn đe, uy hiếp tinh thần để làm cho người thi hành công vụ lo sợ vũ lực sẽ xảy ra. Sự đe dọa phải xảy ra trên thực tế và có cơ sở để người bị đe dọa tin rằng lời đe dọa đó sẽ được thực hiện nếu người thi hành công vụ tiếp tục thực hiện công vụ của mình hoặc không thực hiện các hành vi trái pháp luật theo yêu cầu của người phạm tội.

+ Thủ đoạn khác được hiểu là các thủ đoạn tuy không phải là dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực nhưng vẫn có thể uy hiếp được tinh thần người thi hành công vụ như đe doạ sẽ công bố những tin tức, tài liệu bất lợi cho người thi hành công vụ hoặc cho người thân thích của họ, đe doạ huỷ hoại tài sản;


cởi bỏ quần áo trước người đang thi hành công vụ; tự gây thương tích hoặc giả gây thương tích để vu khống bị người thi hành công vụ hành hung; v.v...

- Hậu quả của tội phạm: Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP tội chống người thi hành công vụ. Tội phạm hoàn thành khi người phạm tội có một trong các hành vi nêu trên để cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật. Việc người thi hành công vụ có thực hiện hay không thực hiện theo yêu cầu của người phạm tội không ảnh hưởng đến việc định tội danh đối với hành vi phạm tội.

*Chủ thể của tội phạm

Theo PLHS Việt Nam thì chủ thể của tội chống người thi hành công vụ chỉ có thể là cá nhân. Đó là người có năng lực TNHS và đủ độ tuổi theo luật định.

Theo đó thì người có năng lực TNHS là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy.

Về tuổi chịu TNHS, Điều 12 BLHS năm 2015 quy định: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. 2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252,

265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này” [25, Điều 12].

Đối chiếu với quy định tại Điều 330 BLHS năm 2015, thì chủ thể của tội chống người thi hành công vụ là người từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực TNHS mới có thể là chủ thể của tội phạm này.


*Mặt chủ quan của tội phạm

Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội, bao gồm: lỗi, động cơ và mục đích.

Lỗi của người phạm tội chống người thi hành công vụ là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức được hành vi cản trở việc thực hiện công vụ của người thi hành công vụ là trái pháp luật và mong muốn người đang thi hành công vụ không thể hoàn thành công vụ mà họ được giao.

Mục đích của người phạm tội chống người thi hành công vụ là “cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ” (không thực hiện được công vụ hoặc thực hiện hành vi trái công vụ). Đây là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP.

Động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội chống người thi hành công vụ. Người phạm tội chống người thi hành công vụ có thể do những động cơ phạm tội khác nhau và luật không giới hạn động cơ phạm tội cụ thể.

* Trách nhiệm hình sự của tội chống người thi hành công vụ

- Phạm tội thuộc trường hợp CTTP cơ bản quy định tại khoản 1 Điều 330 BLHS quy định: thì người phạm tội bị áp dụng khung hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

- Phạm tội thuộc trường hợp CTTP tăng nặng tại khoản 2 Điều 330 BLHS với tình tiết định khung tăng nặng dưới đây thì người phạm tội bị áp dụng khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

+ Có tổ chức: Đây là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Trong vụ án chống người thi hành công vụ có tổ chức, tùy thuộc vào quy mô, tính chất có thể có những người giữ vai trò khác nhau như người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức và trách nhiệm hình sự đối với từng người còn tùy thuộc vào vai trò của họ trong vụ án.


+ Phạm tội 02 lần trở lên: Người phạm tội đã có tất cả hai lần chống người thi hành công vụ trở lên mà mỗi lần phạm tội đều có đầy đủ yếu tố cấu thành tội phạm; đồng thời trong số các lần đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc hết thời hiệu truy cứu TNHS.

+ Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội: Về hành vi tương tự như hành vi của người tổ chức, người xúi giục trong vụ án có tổ chức. Tuy nhiên, đây là hành vi của người phạm tội không có tổ chức mà chỉ là đồng phạm thông thường, có nhiều người tham gia. Vì vậy, nếu đã bị coi là tội phạm có tổ chức thì không bị áp dụng tình tiết này nữa.

+ Gây thiệt hại về tài sản 50.000.000 đồng trở lên.

+ Tái phạm nguy hiểm: Đối với tội danh này thì chỉ được coi là tái phạm nguy hiểm khi người phạm tội đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội này.

1.3. Phân biệt tội chống người thi hành công vụ với một số tội khác

Có thể nói trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đã có không ít trường hợp định tội danh chưa chính xác khi định tội danh những hành vi “chống người thi hành công vụ” với một số tội danh có dấu hiệu định khung là “chống người thi hành công vụ” như tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác, tội làm nhục người khác. Do vậy, việc phân biệt những trường hợp này có ý nghĩa rất quan trọng.

1.3.1. Phân biệt tội chống người thi hành công vụ với tội giết người có tình tiết định khung tăng nặng “Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân”

Tội giết người với tình tiết định khung tăng nặng “Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân” được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 123 BLHS năm 2015. Tình tiết này bao gồm 02 trường hợp: trường hợp giết người mà nạn nhân là người đang thi hành công vụ được hiểu

Xem tất cả 93 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí