Thiếu Sót Trong Việc Áp Dụng Pháp Luật, Đánh Giá Vai Trò Của Các Đối Tượng Và Định Tội Danh Chưa Chính Xác.


Ví dụ: Bản án số 283/2017/HSPT ngày 27/10/2017 của TAND tỉnh ĐN (Bản án hình sự sơ thẩm số 263/2017/HSST ngày 05/7/2017 của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai).

Nội dung vụ án: Khoảng 19 giờ 15 phút ngày 15/4/2017, Trần Mạnh Th là người có Giấy phép lái xe hạng C, điều khiển xe ô tô tải biển số 60C-

107.62 vượt tải trọng 1.620 kg lưu thông trên Quốc lộ 1 hướng từ ngã tư VT đi TP.HCM. Thời điểm này, tổ tuần tra của Đội Cảnh sát giao thông số 1 Công an tỉnh ĐN, gồm có Lê Quang M, Nguyễn Đình H và Hà Văn H đang thực hiện nhiệm vụ tại ngã tư VT phát hiện xe do Th điều khiển có dấu hiệu vi phạm nên ra hiệu lệnh dừng xe, nhưng Th không chấp hành, tiếp tục điều khiển xe đi về hướng TP.HCM. Thấy vậy, anh M nhờ anh Nguyễn Đức A là người dân đang đứng gần đó dùng xe mô - tô chở anh M đuổi theo. Khi đến trạm thu phí cầu ĐN thuộc Km1872, xe anh M vượt lên chặn xe của Th dừng lại trên làn đường số 11. Tại đây, anh M yêu cầu Th xuống xe xuất trình giấy tờ. Th vẫn để máy xe hoạt động rồi xuống xe nhưng không xuất trình giấy tờ theo yêu cầu của anh M. Sau đó, Th đi vòng qua mở cửa bên phải, lên xe điều khiển đánh hết tay lái về bên phải để cho xe chạy vào làn số 10 bỏ chạy. Thấy vậy, anh M chạy bộ đuổi theo. Khi đến ngang cabin thì anh M cầm đèn pin nhảy lên đánh vỡ kính chiếu hậu bên trái, yêu cầu Th dừng xe lại. Lúc này, Th đánh lái về bên trái để cho xe đi thẳng vào làn đường số 10, phần hông bên trái xe va chạm vào người anh M, làm anh M ngã xuống đường, bị bánh sau bên trái xe của Th cán qua người, tử vong tại chỗ. Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 228/PC54-KLGĐPY ngày 24/4/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh ĐN, kết luận nguyên nhân tử vong của anh Lê Quang M do: Chấn thương hở vùng bụng - bẹn hở gây gãy xương chậu, xương cẳng chân, vỡ thận, dập rách ruột, vỡ bàng quang, bao tinh hoàn, đứt động - tĩnh mạch bẹn. Với hành vi trên, Trần Mạnh Th bị Cơ quan điều tra và VKSND


thành phố BH, tỉnh ĐN khởi tố, điều tra, truy tố về tội “Chống người thi hành công vụ” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 257 BLHS năm 1999.

Bản án hình sự sơ thẩm số 263/2017/HSST ngày 05/7/2017 của TAND thành phố BH quyết định: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 257; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt Trần Mạnh Th 06 năm tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Ngày 06/7/2017, Trần Mạnh Th kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Bản án hình sự phúc thẩm số 283/2017/HSPT ngày 27/10/2017 của TAND tỉnh Đồng Nai quyết định: Chấp nhận kháng cáo của Trần Mạnh Th, sửa bản án hình sự sơ thẩm; áp dụng khoản 1 Điều 257, điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 và Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội và khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015, xử phạt Trần Mạnh Th 02 năm 06 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Vì tại thời điểm xét xử sơ thẩm cũng là ngày nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội có hiệu lực pháp luật và cũng là ngày hết hiệu lực của nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc hội. Khi xét xử Tòa án không áp dụng nghị quyết số 41/2017 về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội. Theo quy định tại khoản 2 điều 2 của nghị quyết số 41/2017 có ghi kể từ ngày Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 được công bố, tiếp tục thực hiện các quy định sau đây: a) … h) Thực hiện các quy định tại khoản 3 điều 7 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm b khoản 1 điều này. Theo BLHS năm 2015 thì trường hợp “Gây hậu quả nghiêm trọng” không có tình tiết định khung tăng nặng ở khoản 2 điều 330 BLHS năm 2015.

Nhận xét: Qua nội dung vụ án trên có thể thấy, Trần Mạnh Th không có hành vi sử dụng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực chống lại anh M, làm anh M không hoàn thành được nhiệm vụ của mình mà hậu quả của vụ án là làm anh


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 93 trang tài liệu này.

M tử vong. Mặt khác, theo hướng dẫn tại Mục 5 Chương VI Nghị quyết số 04-HĐTPTANDTC/NQ ngày 29/11/1986, hậu quả nghiêm trọng của tội “Chống người thi hành công vụ” có thể là: người thi hành công vụ không hoàn thành được nhiệm vụ; việc chấp hành pháp luật ở địa phương hoặc khu vực trở nên lỏng lẻo; kẻ xấu lợi dụng cơ hội reo rắc dư luận gây ảnh hưởng xấu. không phải là làm chết người. Thực tế BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã cụ thể hóa tình tiết “Gây hậu quả nghiêm trọng” thành “Gây thiệt hại về tài sản từ 50.000.000 đồng trở lên”. Do đó, hành vi của Th không phạm tội “Chống người thi hành công vụ”. Trong vụ án này, nguyên nhân chính làm anh M tử vong là do Trần Mạnh Th không chấp hành hiệu lệnh dừng xe, điều khiển xe bỏ chạy để trốn tránh việc xử lý vi phạm. Hành vi bỏ chạy, không chấp hành hiệu lệnh, yêu cầu của người điều khiển giao thông của Trần Mạnh Th đã vi phạm khoản 23 Điều 8, Điều 10 và Điều 11 Luật Giao thông đường bộ, dẫn đến hậu quả làm anh M tử vong, đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” với tình tiết định khung tăng nặng là “Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999. Do vậy, mức hình phạt 02 năm 06 tháng tù là quá nhẹ, không có tác dụng răn đe, phòng ngừa các tội phạm về giao thông và hành vi không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển giao thông xảy ra nghiêm trọng. Trong thực tế, TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã hủy bản án sơ thẩm, phúc thẩm để xét xử lại.

2.2.2.2. Thiếu sót trong việc áp dụng pháp luật, đánh giá vai trò của các đối tượng và định tội danh chưa chính xác.

Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai - 7

Ví dụ: Bản án số 150/2019/HS-PT ngày 17/05/2019 về tội chống người thi hành công vụ và tội cố ý gây thương tích (Bản án hình sự sơ thẩm số: 66/2018/HSST ngày 08/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện T).


Nội dung vụ án: Khoảng 21 giờ 20 phút ngày 14/04/2018, khi tổ công tác gồm đồng chí Thượng úy Trần L - Tổ trưởng và các tổ viên Thượng úy Trần Triệu P, Thượng úy Nguyễn Huy C, Trung úy Đỗ Phạm Tuấn A kết hợp với tổ an toàn giao thông tuần tra kiểm soát theo quy định tại tuyến đường liên xã thuộc ấp L, xã X, huyện T, tỉnh Đồng Nai thì phát hiện 03 đối tượng gồm Nguyễn Trung L1, Nguyễn Trung T và Nguyễn Trọng Đ đang điều khiển 03 xe môtô. Tổ công tác đã ra hiệu lệnh dừng các xe môtô biển số 60B7- 522.xx do Nguyễn Trung T điều khiển; xe môtô biển số 59T1-723.xx do Nguyễn Trọng Đ điều khiển để yêu cầu kiểm tra theo quy định. Sau khi dừng xe, T và Đ chống đối không xuất trình giấy tờ, không thực hiện yêu cầu của tổ tuần tra đồng thời có hành vì xô đẩy, dùng lời lẽ xúc phạm, nhục mạ tổ công tác. Riêng L1 thấy vậy cũng dừng xe vào lề đường và tham gia cùng đồng bọn. Gặp sự phản kháng của Đ và T, Thượng úy Nguyễn Huy C đã sử dụng bộ đàm liên lạc với tổ công tác yêu cầu hỗ trợ. Lúc này, Thượng úy Trần L và Thượng úy Trần Triệu P cùng với các anh trong tổ an toàn giao thông cũng có mặt để hỗ trợ, yêu cầu T và Đ chấp hành hiệu lệnh, xuất trình giấy tờ nhưng T và Đ không chấp hành, đồng thời có hành vi, lời lẽ chống đối. Nguyễn Trung T và Nguyễn Trung L1 vừa sử dụng điện thoại ghi hình vừa to tiếng dùng lời lẽ mạt sát, xúc phạm tổ công tác. Tổ công tác kiên quyết lập biên bản, dắt xe vào trong lề đường để xử lý thì L1 và Đ chặn giữ xe lại, không cho tổ công tác đưa phương tiện vào tập kết, còn T đã sử dụng điện thoại di động của mình, bật chế độ mở đèn chiều sáng (đèn led) tiến sát lại gần, dí điện thoại sát mặt và chiếu thẳng đèn vào mặt Thượng úy P vừa quay hình vừa dùng lời lẽ khích bác, thách thức Thượng úy P. Thượng úy P đã dùng tay gạt tay của T ra, làm rớt điện thoại của T xuống đường. T liền dùng tay hất văng điện thoại của Thượng úy P đang quay phim xuống đường và xông vào xô xẩy, dùng tay phải đấm thẳng trúng vào mặt của Thượng úy P


gây thương tích rách môi trên. Thượng úy Trần L cùng Trung úy Đỗ Phạm Tuấn A, Thượng úy Nguyễn Huy C vào hỗ trợ khống chế bắt giữ T. Trong lúc đang bị khống chế, T vùng ra, nhặt mũ bảo hiểm đã rơi xuống đất đập thẳng 01 cái trúng vào mặt của Thượng úy P gây thương tích gãy xương chính mũi, rách mí mắt. Thấy T bị tổ công tác khống chế, Nguyễn Trọng Đ xông vào tấn công các đồng chí trong tổ công tác để giải vây cho đồng bọn, tuy nhiên ngay sau đó, Nguyễn Trung T và Nguyễn Trọng Đ đều bị tổ công tác khống chế bắt giữ. Cùng lúc này, Nguyễn Trọng L1 chạy vào nhà dân gần đó lấy 02 con dao (loại dao thái, dài 30cm, cán dao bằng nhựa màu đen) xông vào tấn công tổ công tác để giải vây cho Đ và T. Sau khi giải vây cho đồng bọn, L1 đưa cho Đ 01 con dao Thái Lan, còn T nhặt lấy mũ bảo hiểm và hô hào, kêu gọi đồng bọn đánh tổ công tác. Cả ba cầm hung khí xông vào tấn công tổ công tác, dí đuổi đánh Thượng úy Trần L ngã vào tường rào nhà dân. Nguyễn Trung L1 cầm dao xông tới đâm, Thượng úy Trần L đưa tay phải lên đỡ, nhát dao trúng vào ngón tay phải của Thượng úy Trần L gây thương tích. Còn Nguyễn Trung T từ phía sau tiếp tục xông tới, sử dụng mũ bảo hiểm đánh vào mặt Thượng úy L gây thương tích nhưng không đáng kể. Ngay sau khi sự việc xảy ra, Công an xã X đã hỗ trợ phối hợp bắt giữ Nguyễn Trung T, Nguyễn Trung L1 và Nguyễn Trọng Đ đưa về trụ sở Công an xã X lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0420/GĐPY/2018 ngày 08/6/2018 của Trung tâm pháp y sở y tế Đồng Nai xác định Thượng úy Trần Thiệu P tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 11%. Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0421/GĐPY/2018 ngày 04/6/2018 của Trung tâm pháp y sở y tế Đồng Nai xác định Thượng úy Trần L tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 01%.


Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 66/2018/HSST ngày 08/10/2018 của Toà án nhân dân huyện T đã áp dụng khoản 1 Điều 330; điểm a, k khoản 1 và điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, Điều 51, Điều 55 BLHS năm 2015; xử phạt bị cáo Nguyễn Trung T 08 (tám) tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”; 02 (hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt buộc Nguyễn Trung T phải chấp hành hình phạt chung là 02 (hai) năm 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án (Được trừ thời gian tạm giam từ ngày 15/04/2018 đến ngày 11/05/2018). Ngày 22/10/2018, bị cáo Nguyễn Trung T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại cấp phúc thẩm, TAND tỉnh Đồng Nai đã không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Trung T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Nhận xét: Theo tác giả việc TAND hai cấp tỉnh Đồng Nai định tội danh và quyết định hình phạt đối với hành vi của Nguyễn Trung T 08 (tám) tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”; 02 (hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt chung là 02 (hai) năm 08 (tám) tháng tù, là không chính xác. Bởi lẽ, trong vụ án trên T là đối tượng có hành vi chống đối, không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển giao thông, đã có hành vi dùng vũ lực tấn công tổ công tác mà trực tiếp là Thượng úy Trần Thiệu P gây ra thương tích 11%. Căn cứ hướng dẫn Mục 5, Chương VI, Nghị quyết số 04- HĐTPTANDTC/NQ ngày 29/11/1986 thì nếu người phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người thi hành công vụ, thì tùy tình tiết của vụ án, họ bị xử lý theo Điều 109 khoản 2 điểm b (gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe) hoặc theo Điều 109 khoản 3 (gây cố tật nặng hoặc dẫn đến chết người). Như vậy, đối với vụ án trên hành vi của T chỉ bỉ xử lý theo quy định tại điểm a, k khoản 1 và điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS về tội cố ý gây thương tích mà không bị xử lý về hành vi chống người thi hành công vụ như trên. Mặt khác, việc áp dụng pháp luật của TAND hai cấp tỉnh Đồng Nai


trong vụ án trên có điểm chưa chính xác khi T là đối tượng cầm đầu, vai trò tích cực đã có hành vi nhặt lấy mũ bảo hiểm và hô hào, kêu gọi đồng bọn đánh tổ công tác, có dấu hiệu xúi giục, kích động lôi kéo người khác phạm tội là tình tiết tang nặng định khung theo quy định tại điểm c, khoản 2 Điều 330 BLHS nhưng không được TAND hai cấp tỉnh Đồng Nai đề cập đến.

2.2.2.3. Quyết định hình phạt nặng hơn so với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội

Ví dụ 1: Bản án số 141/2018/HS- PT ngày 11/07/2018 của TAND tỉnh Đồng Nai (Bản hình sự sơ thẩm số 123/2018/HS-ST ngày 18/4/2018 của Tòa án nhân dân thành phố X12, tỉnh Đồng Nai).

Nội dung vụ án: Khoảng 15 giờ ngày 17/12/2017, Trần Gia T1 điều khiển xe mô tô hiệu Airblade biển số 59U1-207.35 chở Trần Gia T5 (là em ruột T1) lưu thông trên đường Nguyễn Ái Quốc hướng Ngã tư Tân Phong đi Cầu Hóa An. Khi đến chốt giao thông Cổng 1, A42 sân bay Biên Hòa (đang đèn đỏ), T1 vượt đèn đỏ nên lực lượng tuần tra của Cảnh sát giao thông Công an TP. Biên Hòa ra hiệu lệnh dừng xe nhưng T1 không chấp hành mà tăng ga bỏ chạy. Lúc này anh Nguyễn Văn T4 là Cảnh sát giao thông đang thi hành công vụ dùng xe mô tô đặc chủng đuổi theo T1 đến trước quán cơm Việt ở số 1772, khu phố 6, phường Trung Dũng, thành phố Biên Hòa yêu cầu T1 dừng xe, T1 dừng lại. Anh Thuận chào hiệu lệnh, thông báo lỗi và yêu cầu T1 xuất trình giấy tờ để kiểm ra. T1 xuống xe rút chìa khóa xe đưa cho Trần Gia T5 và nói T5 lấy xe chạy đi. Anh T4 tiếp tục yêu cầu T1 xuất trình giấy tờ thì T1 xông tới chỗ anh Thuận dùng cẳng tay phải đè mạnh vào cổ anh T4 làm anh T4 té ngã ngửa xuống đường rồi T1 nằm úp đè lên người anh T4 để Trần Gia T5 lấy xe chạy. Thấy vậy, Trần Gia T5 nổ máy xe bỏ chạy. T1 đứng lên bỏ chạy thì anh T4 và người dân đến hỗ trợ khống chế bắt giữ T1.


Tại bản án số 123/2018/HS-ST ngày 18/4/2018 của Tòa án nhân dân thành phố X12 đã áp dụng khoản 1 Điều 257 của BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009; điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 BLHS năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tuyên bố bị cáo Trần Gia T1 phạm tội “Chống người thi hành công vụ”. Xử phạt: Trần Gia T1 05 (Năm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án, được trừ vào thời gian tạm giữ (từ ngày 18/12/2017 đến ngày 22/12/2017).

Nhận xét: Việc định tội danh của TAND thành phố X là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, bị cáo T1 thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nhân thân tốt, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s, i khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của BLHS năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Quá trình sinh sống tại địa phương chấp hành tốt quy định của pháp luật, có xác nhận của Ủy ban nhân dân phường X3, Quận X4, thành phố Hồ Chí Minh; bị cáo có việc làm ổn định và nơi cư trú rò ràng, có khả năng tự cải tạo, việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Căn cứ Điều 65 BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Tòa án nhân dân tối cao, bị cáo T1 không thuộc trường hợp không được hưởng án treo, và đáp ứng các điều kiện được hưởng án treo, do đó theo tác giả không cần thiết cách ly bị cáo T1 ra khỏi xã hội mà nên giao về chính quyền địa phương giám sát, giáo dục cũng có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung. Do vậy, theo tác giả không cần thiết phải áp dụng hình phạt tù với bị cáo mà có thể cho bị cáo hưởng án treo. Bản án tuyên hình phạt nêu trên là quá nặng so với hành vi của bị cáo.

Xem tất cả 93 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí