Mối Quan Hệ Giữa Tòa Án Nhân Dân Cấp Cao Tại Hà Nội Với Các Cơ Quan Thực Hiện Quyền Lực Nhà Nước

cấp là Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Tòa án nhân dân cấp cao và Tòa án nhân dân tối cao.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chỉ rõ: Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Nghiên cứu ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp. Ban cán sự đảng TANDTC đang nghiên cứu, xây dựng Đề án "Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của TAND bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đáp ứng yêu cầu của tình hình mới theo Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII của Đảng" nhằm bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ trong tình hình mới, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Đề án tập trung vào những nội dung chủ yếu sau: Tiếp tục xây dựng hệ thống TAND chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao, hoàn thành trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân, đáp ứng yêu cầu “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của TAND...Việc đổi mới tổ chức TAND phải đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng. Thực hiện được những chủ trương cốt lõi của Đảng đã được khẳng định trong Nghị quyết Đại hội XIII và các nghị quyết về cải cách tư pháp.

Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng về hoạt động tư pháp và cải cách tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN cho thấy, đẩy mạnh cải cách tư pháp là quan điểm xuyên suốt, kiên định, có trọng tâm, trọng điểm của Đảng. Cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp luôn được lãnh đạo triển khai đồng bộ với xây dựng nền hành chính nhà nước và đổi mới chất lượng hoạt động của Quốc hội. Đảng khẳng định, cải cách tư pháp có mục tiêu bảo vệ quyền con người và là động lực để phát triển kinh tế - xã hội, lấy mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội vì con người làm cơ sở cho triển khai các mục tiêu, nhiệm vụ cải cách tư pháp. Điều này cho thấy, quan điểm của Đảng về tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN gắn với cải cách tư pháp ngày càng được thể hiện một cách cụ thể hơn, thiết thực hơn và dễ đi vào đời sống hơn khi xác định không chỉ lộ trình thực hiện mà còn chỉ ra cách thức, phương pháp tiến hành có hiệu quả nhất. Trên cơ sở đó, cần tiếp tục đẩy mạnh, thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp và đổi mới hệ thống tòa án trong các luật về bộ máy, hình sự, dân sự, tố tụng, thi hành án…Do tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, vì vậy phương thức lãnh đạo của Đảng với tòa án cũng có những điểm đặc thù. Theo đó, không được để cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên cơ quan nhà nước hay tổ chức, người có quyền hạn nào nhân danh Đảng để can thiệp trực tiếp vào công tác xét xử của Tòa án. Đảng viên làm công tác xét xử phải chấp hành điều lệ Đảng bảo đảm các phán quyết của Tòa án công minh, chính trực, bảo vệ công lý, gắn liền với yêu cầu phát huy dân chủ trên nguyên tắc hiến định tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân.

2.1.2. Qui định của pháp luật hiện hành

Ngày 28-11-2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Hiến pháp, trong đó quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, thể hiện sự phân công quyền lực Nhà nước mạch lạc, đề cao trách nhiệm của Tòa án trong việc thực hiện quyền tư pháp; Tòa

án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến của nước ta, trong Hiến pháp được quy định rõ “Tòa án thực hiện quyền tư pháp”. Hiến pháp cũng qui định Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Thể chế hóa quan điểm đường lối, chính sách của đảng và các quy định của Hiến pháp, Luật TCTAND, Các luật tố tụng hình sự, Dân sự, hành chính, pháp lệnh, nghị quyết của UBTV Quốc hội, Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, Thông tư, thông tư liên tịch đã cụ thể hóa các nguyên tắc hoạt động, thẩm quyền, chức năng vi trí của hệ thống Tòa án các cấp. Theo đó tổ chức và hoạt động của Tòa các Tòa án như sau:

Hệ thống tòa án nhân dân hiện nay bao gồm các tòa án được sắp xếp theo thứ bậc như một kim tự tháp, ở mỗi thứ bậc bao gồm một hay một số tòa án có vị trí ngang nhau được gọi là “cấp tòa án”. Hiện có 4 cấp tòa án. Ở cấp cao nhất của hệ thống tòa án là Tòa án nhân dân tối cao. Ở dưới Tòa án nhân dân tối cao chia thành hai nhánh tòa án không đều nhau về quy mô. - Nhánh thứ nhất có thể được gọi là nhánh tòa án dân sự. Sở dĩ gọi là tòa án dân sự là bởi vì các tòa án thuộc nhánh này giải quyết các tranh chấp trong nhân dân, bao gồm các tranh chấp theo pháp luật dân sự, hình sự, kinh tế, hôn nhân, gia đình, lao động, hành chính. Ở cấp thấp nhất là các tòa án nhân dân cấp huyện, được thành lập ở tất cả các đơn vị hành chính cấp huyện (Điều 49 Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2014) các tòa án nhân dân cấp tỉnh, được thành lập ở tất cả các đơn vị hành chính cấp tỉnh. Phía trên TAND cấp tỉnh và dưới

TAND tối cao là các Tòa án dân dân cấp cao. Hiện có 3 Tòa án dân dân cấp cao được bố trí ở Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh với phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.

Nhánh thứ hai là nhánh tòa án quân sự: Các Tòa án thuộc nhánh này chỉ xét xử các vụ việc hình sự mà bị cáo là quân nhân tại ngũ (Điều 49 Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2014). Nhánh này cũng bao gồm 3 cấp tòa án song không được thành lập theo đơn vị hành chính lãnh thổ mà theo đơn vị trong quân đội. Ở cấp thấp nhất là các tòa án quân sự khu vực; phía trên là các tòa án quân sự cấp quân khu và tương đương (ví dụ: tòa án quân sự binh chủng, quân chủng); trên nữa là Tòa án quân sự trung ương.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.

Bên cạnh tổ chức theo cấp hành chính lãnh thổ, các Tòa án của Việt Nam còn được tổ chức theo cấp xét xử: Sơ thẩm là cấp xét xử lần đầu đối với vụ tranh chấp. Phúc thẩm là cấp xét xử lần thứ hai đối với vụ tranh chấp đã được xét xử lần đầu song bản án chưa có hiệu lực và các bên sử dụng quyền kháng cáo hoặc Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyên kháng nghị. Sơ thẩm và phúc thẩm là hai cấp xét xử vụ việc, có nghĩa là ở các lần xét xử này Tòa án phải đưa ra phán quyết ai đúng, ai sai trong vụ tranh chấp và chế tài pháp lý tương ứng đối với vi phạm. Cấp giám đốc thẩm, tái thẩm thực chất không phải là cấp xét xử vụ án. Ở cấp này, Tòa án không phán quyết trực tiếp ai đúng, ai sai trong các bên đương sự mà phán quyết về việc bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án cấp dưới sai ở chỗ nào và tại sao sai. Nói ngắn gọn, đối tượng xét xử của Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm là bản thân tranh chấp, còn giám đốc thẩm, tái thẩm là xem xét tính đúng đắn của bản án sơ thẩm, phúc thẩm đã có hiệu lực.

Tòa án Việt Nam hiện nay được tổ chức theo cấp xét xử có nghĩa là mỗi Tòa án được quy định thẩm quyền xét xử riêng, được quy định cụ thể trong pháp luật tố tụng. Tuy vậy, thẩm quyền xét xử của các tòa án được xác định chung như sau:

Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân - Từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội - 5

- Tòa án nhân dân cấp huyện chỉ có thẩm quyền xét xử sơ thẩm bởi lẽ đây đã là cấp Tòa án thấp nhất của hệ thống Tòa án. Có thể coi Tòa án nhân dân cấp huyện là “cỗ máy” xét xử sơ thẩm chính, số lượng các vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của các tòa án nhân dân cấp huyện là rất lớn.

- Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với những vụ việc không thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp huyện, đồng thời có thẩm quyền xét xử phúc thẩm đối với những vụ việc do TAND cấp huyện xét xử mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực bị kháng cáo, kháng nghị.

- Tòa án dân dân cấp cao có thẩm quyền xét xử phúc thẩm đối với các vụ việc đã được xử sơ thẩm bởi TAND cấp tỉnh mà bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị khi chưa có hiệu lực. Bên cạnh đó, các TAND cấp cao cũng có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật.

- Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền xét xử giám đốc, tái thẩm đối với các bản án, quyết định đã có hiệu lực của các Tòa án cấp dưới. Theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành thì TAND tối cao xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực của các Tòa án dân dân các cấp.

Mỗi Tòa án trong hệ thống tòa án của Việt Nam có phạm vi thẩm quyền riêng về lãnh thổ và nội dung vụ việc. Mặc dù sắp xếp theo một hệ thống có thứ bậc song khó có thể nói Tòa án nào là cấp dưới của Tòa án nhân dân cấp trên theo nghĩa cấp dưới về mặt hành chính hoặc tầm quan trọng. Tòa án nhân dân cấp huyện không thể bị coi là ít quan trọng hơn TAND cấp tỉnh bởi vì tranh chấp có được giải quyết dứt điểm ngay từ lần xử đầu tiên hay không phụ thuộc vào Tòa án này. Cũng không thể nói TAND cấp tỉnh xử phúc thẩm khác với TAND cấp huyện xử sơ thẩm thì có nghĩa rằng TAND cấp huyện đã xử sai. Mỗi Tòa án có phạm vi thẩm quyền riêng biệt, độc lập và tự chịu trách

nhiệm khi tiến hành xét xử. Đây chính là nguyên tắc “các tòa án nhân dân được tổ chức độc lập theo thẩm quyền xét xử” quy định trong Luật tổ chức tòa án nhân dân hiện hành (Điều 5 Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2014).

Về tổ chức hành chính mỗi cấp tòa án của Việt Nam đều được tổ chức như một “cỗ máy” với các bộ phận liên kết với nhau về mặt hành chính để tổ chức thực hiện chức năng của Tòa án (Hội đồng thẩm phán, ủy ban thâm phán, các Tòa chuyên trách, đơn vị giúp việc). Mỗi cấp Tòa án, hoặc cùng cấp Tòa án nhưng khác nhau về số lượng, tính chất các vụ việc mà tổ chức hành chính của các Tòa án cũng không đồng nhất.

Theo nguyên tắc xét xử tập thể quyết định theo đa số, mỗi khi thụ lý một vụ việc thì Chánh án hoặc Chánh tòa của TAND ở các cấp thành lập các hội đồng để xét xử. Tất nhiên, nguyên tắc này có ngoại lệ, đó là khi áp dụng thủ tục rút gọn theo quy định của pháp luật tố tụng tương ứng thì chỉ có 1 thẩm phán thực hiện xét xử. Thành phần của Hội đồng xét xử khác nhau theo từng cấp xét xử và theo quy định của pháp luật tố tụng tương ứng.

Về chức danh hành chính - chuyên môn trong Tòa án: Có khá nhiều chức danh như: Chánh án, phó chánh án, chánh tòa, phó chánh tòa, thẩm phán, hội thẩm, thư kí tòa án, thẩm tra viên. Hiện nay gọi là chức danh hành chính chuyên môn và chức danh tư pháp. Tuy nhiên, trực tiếp chịu trách nhiệm xét xử các vụ việc thì chỉ có thẩm phán và hội thẩm. Nếu một thẩm phán đồng thời là Chánh án thì khi ngồi trong hội đồng xét xử, thẩm phán đó mang tư cách thẩm phán chứ không phải tư cách Chánh án. Như vậy, thẩm phán và hội thẩm là hai chức danh trực tiếp tham gia Hội đồng xét xử để thực hiện chức năng xét xử của tòa án. Cả hai chức danh này đều có thủ tục hình thành đặc biệt, phù hợp với yêu cầu chuyên môn đối với công việc của họ. Hai chức danh này có yêu cầu về trình độ khác nhau, có cách thức hình thành khác nhau theo “chế độ bổ nhiệm thẩm phán; bầu, cử hội thẩm” – (Điều 7 Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2014). Nhiệm vụ, quyền hạn của các chức danh

chuyên môn, chức danh tư pháp được pháp luật qui định cụ thể trong luật tổ chức và pháp luật tố tụng.

2.1.3. Mối quan hệ giữa Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội với các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước

Theo các quy định trong Hiến pháp 2013 và các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan đến tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước và của hệ thống cơ quan xét xử, địa vị pháp lý của TAND chịu sự tác động của các yếu tố khách quan và chủ quan, chắng hạn như các quy định pháp luật, việc tổ chức hệ thống các cấp chính quyền hay việc phân định địa giới hành chính ở mồi quốc gia, hay các nhóm quan hệ cơ bản như:

Một là: Mối quan hệ giữa TAND với cơ quan quyền lực, cơ quan hành pháp.

Trên cơ sở nguyên tắc hiến định "Quyền lực Nhà nước thống nhất và thuộc về nhân dân”, “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp" và các nguyên tắc "Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam" [25], "Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương"[25]. Tòa án nhân dân cấp cao là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, là một cấp Tòa án nhưng đặc thù thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với nhiều bản án, quyết định của nhiều Tòa án cấp tỉnh, cấp huyện trên các phạm vi lãnh thổ khác nhau, có phạm vi thẩm quyền không theo đơn vi hành chính. Để đảm bảo thống nhất quyền lực Nhà nước và cơ chế kiểm soát quyền lực thì TANDCC chịu sự giam sát của cơ quan quyền lực và hành pháp như sau:

Căn cứ vào hình thức kiểm soát, có thể chia cơ chế kiểm soát quyền tư pháp của Tòa án hiện nay của nước ta thành hai nhóm: cơ chế tự kiểm soát hoạt động tư pháp của Tòa án và cơ chế kiểm soát từ phía bên ngoài Tòa án. Trong cơ

chế kiểm soát từ phía bên ngoài có thể phân chia thành hai nhóm: kiểm soát bên ngoài mang tính quyền lực nhà nước và kiểm soát bên ngoài không mang tính quyền lực nhà nước.

Cơ chế tự kiểm soát là việc TAND tối cao, dựa trên các quy định của pháp luật, kiểm soát hoạt động tổ chức, quản lý cán bộ, hoạt động xét xử của các cấp tòa án và xử lý kỷ luật trong hoạt động tư pháp.

Kiểm soát bên ngoài mang tính quyền lực nhà nước có thể chia thành hai nhóm: kiểm soát trực tiếp hoạt động thực hiện quyền tư pháp của Tòa án (được thực hiện bởi Viện kiểm sát nhân dân); kiểm soát gián tiếp, thông qua hoạt động giám sát của cơ quan cơ dân cử và các thiết chế chính trị - xã hội khác.

Kiểm soát bên ngoài không mang tính quyền lực nhà nước là toàn bộ hoạt động giám sát của truyền thông đại chúng, của tất cả các chủ thể pháp lý không mang tính quyền lực nhà nước. Hoạt động kiểm soát này được đảm bảo bằng pháp luật về báo chí, thông tin và truyền thông, pháp luật về khiếu nại, tố cáo…

Như vậy, hệ thống tòa án các cấp vừa thực hiện việc phối hợp với cơ quan dân cử, cơ quan thực hiện quyền hành pháp, đồng thời thực hiện chức năng kiểm soát quyền lực đối với các cơ quan khác thông qua công tác xét xử. Ngược lại các cơ quan khác kiểm soát quyền tư pháp của Tòa án là toàn bộ các mối quan hệ ràng buộc để hệ thống Tòa án hoạt động theo đúng chuẩn mực mà pháp luật quy định, đảm bảo cho quyền tư pháp được thực hiện bởi cơ quan Tòa án đạt hiệu quả và hiệu lực cao.

Hai là: Mối quan hệ giữa Tòa án với Chủ tịch nước. Hiến pháp xác định rõ Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia của Việt Nam. Trong mối quan hệ với Toà án, Chủ tịch nước có quyền giám sát, kiểm tra chất lượng hoạt động của Toà án thông qua báo cáo của chánh án TANDTC. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án TAND Tối cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/02/2023