Tổ Chức Và Hoạt Động Của Tòa Án Nhân Dân Cấp Cao

đây, trong các quy định về TAND, chúng ta chỉ mới đặt ra nguyên tắc độc lập mang tính chất bên trong có liên quan đến Hội đồng xét xử, khi yêu cầu Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Với vai trò đó, có thể nói, quy định của Điều 5 Luật TCTAND 2014 là một sự hoàn thiện lớn lao đối với tổ chức của TAND, tạo ra cơ chế hợp lý, hữu hiệu trong việc bảo vệ các thẩm phán trước những tác động từ bên ngoài trong quá trình thực thi công lý. Nguyên tắc tổ chức độc lập sẽ là nền tảng pháp lý vững chắc giúp nâng tầm vị trí của TAND và Thẩm phán trong mối quan hệ với các cơ quan khác. Ngoài ra việc thực hiện hiệu quả nguyên tắc này sẽ đưa nền tư pháp Việt Nam tiệm cận hơn với nền tư pháp thế giới.

- Nguyên tắc việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm nhân dân tham gia trừ xét xử theo thủ tục rút gọn; khi xét xử Hội thấm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán.

Đây là một nguyên tắc đã được ghi nhận tại khoản 1 Điều 103 Hiến pháp năm 2013. Điều 8 Luật Tổ chức TAND 2014 đã qui định vấn đề này. Theo nguyên tắc đó, khi xét xử sơ thẩm các vụ án thì trong thành phần Hội đồng xét xử có sự tham gia của các Hội thẩm (Hội thẩm nhân dân hoặc Hội thẩm quân nhân). Đây là thành phần đại diện cho nhân dân khi xem xét các khía cạnh của vụ việc, góp phần bảo đảm việc xét xử có lý và có tình. Vì vậy, bên cạnh việc nâng cao trình độ pháp lý, trình độ chuyên môn cho các Hội thẩm nhân dân thì điều quan trọng, người Hội thẩm phải là người đại diện, nói được tiếng nói đại diện cho dư luận xã hội tại nơi và thời điểm xảy ra vụ án. Với nguyên tắc hai cấp xét xử, sự tham gia của Hội thẩm trong Hội đồng xét xử là bắt buộc trong trình tự xét xử sơ thẩm và mang tính tuỳ nghi (khi thấy cần thiết) trong Hội đồng xét xử phúc thẩm. Để đảm bảo tính khách quan, pháp luật đã qui định, khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, nói cách khác là Hội thẩm có quyền độc lập so với Thẩm phán. Pháp luật về tố tụng đã cụ thể hoá nội dung này bằng cách qui định, khi các thành viên Hội đồng xét

xử nghị án, biểu quyết về từng vấn đề cụ thể của vụ án thì các Hội thẩm phải biểu quyết trước, ý kiến khác của thành viên HĐXX được ghi trong biên bản nghị án. Cũng chính vì Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán nên khi xét xử, mặc dù Thẩm phán được giao chủ toạ phiên tòa nhưng Hội thẩm vẫn có quyền tham gia vào tất cả các trình tự, thủ tục xét xử tại phiên tòa.

- Thẩm phán, Hội thẩm xét xứ độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Nguyên tắc này cũng đã được ghi nhận tại khoản 2 Điều 103 Hiến pháp 2013 và được cụ thể hoá tại Điều 9 Luật Tổ chức TAND năm 2014. Nguyên tắc này qui định khi xét xử, giữa các thành viên Hội đồng xét xử (Thẩm phán và Hội thẩm) và mỗi thành viên Hội đồng xét xử đều có quyền độc lập với nhau và chỉ tuân theo pháp luật. Cho dù Chánh án hoặc Phó Chánh án là một thành viên Hội đồng xét xử thì khi đó, Chánh án hoặc Phó Chánh án cũng chỉ là một người có quyền độc lập với thành viên khác, không có quyền “chỉ đạo” thành viên khác trong Hội đồng xét xử. Thẩm phán chủ toạ cũng chỉ quyền điều hành phiên tòa theo trình tự do luật định, không có quyền tố tụng cao hơn thành viên khác trong Hội đồng xét xử. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm không bị tác động bởi bất cứ áp lực nào từ phía các cơ quan Đảng, chính quyền hoặc sự can thiệp của bất cứ cá nhân, tổ chức nào. Khi xét xử, các thành viên Hội đồng xét xử có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật chứ không chịu sự chỉ đạo, điều hành của Tòa án cấp trên. Khi xét xử, ngoại trừ bị tác động và chi phối bởi “giới hạn cùa việc xét xử” ở trình tự xét xử sơ thẩm và “phạm vi xét xử phúc thẩm”, các thành viên trong Hội đồng xét xử không bị phụ thuộc bởi những quan điểm, những luận cứ của Viện kiểm sát, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác. Các thành viên Hội đồng xét xử có quyền phán xét độc lập trên cơ sở pháp luật và chứng cứ, trên cơ sở đó, họ ban hành các quyết định pháp lý giải quyết vụ án.

Xét xử là quá trình áp dụng pháp luật để xử lý, giải quyết các tranh chấp, hành vi vi phạm pháp luật, đảm bảo công lý. Bản chất của hoạt động xét xử -

tài phán là hoạt động đòi hỏi phải độc lập để đảm bảo công bằng, nếu hoạt động xét xử không độc lập thì việc xét xử sẽ không khách quan, sự độc lập của Tòa án được thể hiện cơ bản qua sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Để đảm bảo nguyên tắc trên Hiến pháp và Luật tổ chức TAND cũng quy định “nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” hành vi can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán, hội thẩm nhân dân tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự. Như vậy Thẩm phán độc lập, không bị ràng buộc bởi ý kiến của bất cứ ai, không bị chi phối bởi ý kiến của ai; không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động xét xử của Thẩm phán. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập, nhưng phải tuân theo pháp luật. Thẩm phán, hội thẩm phải căn cứ vào các quy định cúa pháp luật để đưa ra ý kiến, quyết định của mình về từng vấn đề của vụ án, không được tuỳ tiện hay bằng cảm tính. Do đó, để đảm bảo sự độc lập của Tòa án, pháp luật cần có sự quy định rõ ràng trách nhiệm của Tòa án, của thẩm phán và cơ chế đảm bảo không có sự tham gia, can thiệp trái pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Là một nguyên tắc quan trọng trong hoạt động của Tòa án do vậy các quy định của luật khác (luật hình thức, nội dung) liên quan đều chứa đựng các quy phạm nhằm cụ thể và đảm bảo nguyên tắc được áp dụng trên thực tiễn như qui định về mô hình tổ chức hệ thống tòa án, quy định về thay đổi, từ chối tiến hành tố tụng, về đảm bảo chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, xem xét lại bản án theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm, về mối quan hệ giữa Tòa án với cơ quan hành pháp, cơ quan lập pháp. Để có sự độc lập của Thẩm phán, hội thẩm ngoài việc quy định trách nhiệm của Tòa án và Thẩm phán và các cá nhân, tổ chức khác thì pháp luật cũng đặt ra yêu cầu đối với Thẩm phán được lựa chọn, bổ nhiệm phải là những người có trình độ chuyên môn, có hiểu biết pháp luật cao, có kinh nghiệm thực tiễn và sự công tâm, trách nhiệm trong việc thực thi nhiệm

vụ bảo vệ công lý, những điều kiện đảm bảo chế độ đãi ngộ về lương, điều kiện làm việc, đảm bảo về danh dự, sức khỏe, tính mạng.

- Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.

Đây là nguyên tắc đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận tại Điều 103 và được Luật Tổ chức TAND năm 2014 cụ thể hoá tại các Điều 10. Xét xử tập thể là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Tòa án. Nguyên tắc này thể hiện việc xét xử thông qua hội đồng (tùy vào cấp xét xử và tính chất vụ việc) nhằm phát huy trí tuệ tập thể, đảm bảo tính dân chủ, thận trọng, khách quan khi Tòa án đưa ra phán quyết. Việc thực hiện nguyên tắc xét xử tập thể sẽ góp phần tạo ra sự đồng thuận, thống nhất về quan điểm, cách thức giải quyết vụ việc từ nhiều góc độ để đảm bảo tính khách quan, đúng pháp luật và đảm bảo quyên và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. Đồng thời, việc xét xử theo nguyên tắc tập thể còn là cơ chế để tạo ra sự vô tư trong hoạt động xét xử, ngăn ngừa sự tùy tiện, thiên vị trong xét xử và điều này sẽ tạo được niềm tin cho công chúng trong việc tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh các phán quyết của Tòa án. Nguyên tắc này ở một chừng mực nào đó cũng là rào cản để ngăn ngừa sự can thiệp trái pháp luật vào hoạt động xét xử từ những cơ quan, tồ chức, cá nhân bên ngoài, giảm áp lực cho Thẩm phán trong hoạt động xét xử. Khi xét xử, các thành viên Hội đồng xét xử phải xem xét tập thể đối với từng vấn đề của vụ án và khi biểu quyết, ý kiến của đa số sẽ có hiệu lực pháp lý, đồng thời ý kiến thiểu số cũng được bảo lưu, ghi vào biên bản và được coi là một trong các cơ sở để kiểm tra, xem xét lại bản án của Tòa án khi cần thiết. Cũng chính vì nguyên tắc nói trên, pháp luật tố tụng qui định số lượng thành viên Hội đồng xét xử luôn luôn là số lẻ (ba hoặc 5 thành viên trong Hội đồng xét xử sơ thẩm và phúc thẩm).

- Nguyên tắc bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm.

Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân - Từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội - 3

Đây là các nguyên tắc đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận tại khoản 6 Điều 103. Nguyên tắc này được qui định rõ tại Điều 6 Luật Tổ chức TAND

năm 2014, Điều 27 Bộ luật TTHS 2015, Điều 17 Bộ luật TTDS 2015, Điều 11 Luật tố tụng hành chính. Nội dung nguyên tắc này qui định Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Vụ án được đưa ra xét xử ở cấp sơ thẩm, sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo, các đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị bản án và quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật, vụ án sẽ được đưa ra xét xử lại ở cấp phúc thẩm. Sau khi xét xử phúc thẩm, bản án và quyết định của Tòa án sẽ có hiệu lực pháp luật và có hiệu lực thi hành.Việc qui định Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử là nhằm bảo đảm hạn chế những trường hợp xét xử thiếu khách quan, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xét xử cúa Tòa án.

- Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử kịp thời, công bằng, công khai.

Đây là nguyên tắc hiến định, được qui định tại khoản 3 Điều 103 Hiến pháp 2013. Luật Tổ chức TAND 2014 đã cụ thể hóa nguyên tắc này tại Điều 11 vói nội dung Tòa án xét xử kịp thời trong hạn luật định, xét xử kịp thời hay nói cách khác là xét xử nhanh chóng là nguyên tắc có ý nghĩa quan trọng, góp phần bảo đảm quyền con người, kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Các bộ luật tố tụng hình sự, dân sự, hành chính quy định cụ thể về thời hạn giải quyết xét xử đối với từng loại vụ án, căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các loại án để qui định về thời hạn cụ thể nhằm khắc phục tình trạng trì hoãn, kéo dài một cách vô lý thời hạn và thủ tục tố tụng đối với vụ án. Nội dung nguyên tắc vừa bảo đảm giải quyết nhanh chóng vụ án bằng Tòa án, đồng thời vẫn bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng và khả năng, yêu cầu giải quyết vụ án của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Việc vi phạm thời hạn xét xử là vi phạm nguyên tắc xét xử kịp thời, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Việc xét xử của Tòa án phải công khai để mọi người có thể tham dự, trừ những trường hợp cần phải giữ gìn bí mật quốc gia hoặc để đảm bảo thuần phong, mỹ tục, bảo vệ người dưới 18 tuổi (bị cáo, bị hại, đương sự) hay để

giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì xét xử kín nhưng khi tuyên án phải tuyên công khai, khi tuyên án chỉ đọc phần quyết định của bản án. Việc xét xử công khai là nhằm bảo đảm vai trò giám sát xã hội của công dân, các cơ quan, tổ chức đối với công tác xét xử của Tòa án.

- Nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng trước Tòa án

Quyền bình đẳng trước pháp luật là một trong những quyền của công dân, được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và Hiến pháp của các nước. Điều 7 của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 10/12/1948 đã ghi nhận: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt nào”. Như vậy, để đảm bảo mọi công dân được bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có sự phân biệt thì Tòa án phải trở thành công cụ hữu hiệu để bảo vệ sự bình đẳng và không có sự phân biệt về địa vị xã hội, tôn giáo, dân tộc, nguồn gốc xã hội, điều kiện kinh tế. Để đảm bảo sự bình đẳng của công dân trong hoạt động xét xử, Điều 12 Luật Tổ chức TAND 2014 đã qui định: Tòa án xét xử theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội; cá nhân, cơ quan, tổ chức đều bình đẳng trước Tòa án. Nguyên tắc này đòi hỏi khi xét xử, Tòa án (Hội đồng xét xử) chỉ căn cứ vào các qui định của pháp luật, trên cơ sở các chứng cứ khách quan, có cân nhắc đến các yếu tố riêng của vụ việc xét xử nhưng đã được pháp luật qui định (hoàn cảnh, địa điểm, thời gian và đặc điểm nhân thân) để đưa ra các phán quyết khách quan, công bằng.

- Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

Nguyên tắc này được qui định tại khoản 7 Điều 103 Hiến pháp 2013 và Điều 14 Luật Tổ chức TAND năm 2014. Nguyên tắc này qui định trong quá

trình xét xử, quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự luôn được bảo đảm, thể hiện qua việc bị cáo có quyền tự mình mời người bào chữa cho mình. Nếu người bào chữa được mời không vi phạm qui định về những trường hợp không được bào chữa thì Tòa án phải chấp nhận người bào chữa do bị cáo mời. Trong một số trường hợp đặc biệt (bị cáo là người chưa dưới 18 tuổi, bị truy tố ở khung hình phạt từ 20 năm tù trở lên, người có nhược điểm về thể chất, tinh thần), nếu bị cáo, người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan thực hiện tố tụng phải mời người bào chữa cho bị cáo. Trong các quan hệ pháp luật tố tụng khác, các đương sự được bảo đảm quyền bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, do vậy họ có quyền tự mình bảo vệ (cung cấp chứng cứ, tài liệu, tranh luận khi xét xử, khiếu nại, kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án theo qui định của pháp luật tố tụng); hoặc có quyền nhờ người khác (luật sư, người đại diện hợp pháp) đứng ra bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án phải tôn trọng các quyền của đương sự.

Ngoài những nguyên tắc nói trên, trong tổ chức và hoạt động, Tòa án còn thực hiện theo một số nguyên tắc khác như nguyên tắc về dùng tiếng nói, chữ viết dùng trước Tòa án là tiếng Việt. Tòa án bảo đảm cho những người tham gia tố tụng quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước Tòa án nhân dân, trường hợp này phải có phiên dịch. Ngoài ra trong các bộ luật TTHS, TTDS, TTHC nhà làm luật qui định những nguyên tắc đặc thù các cơ quan tố tụng phải tuân thủ trong quá trình giải quyết vụ án như nguyên tắc suy đoán vô tội, không bị xử lý hai lần cùng một hành vi, đảm bảo khiếu tố, khiếu nại, kiểm tra, giám sát...

1.2. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao

1.2.1. Vị trí của Tòa án nhân dân cấp cao trong hệ thống Tòa án nhân dân

Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, công cuộc cải cách

tư pháp đã được các cấp ủy, tổ chức đảng lãnh đạo và tổ chức thực hiện với quyết tâm cao, đạt được nhiều kết quả. Nhận thức và sự quan tâm đối với công tác tư pháp có nhiều thay đổi theo hướng tích cực; chất lượng hoạt động tư pháp đã được nâng lên một bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tuy nhiên, những kết quả đó mới là bước đầu và mới tập trung vào giải quyết những vấn đề bức xúc nhất. Đảng ta nhận định: “Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chính sách hình sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu.”[2]

Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành nghị quyết 49/NQ-TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Nghị quyết 49/NQ-TW đã thể hiện quyết tâm cao của Đảng ta nhằm cải cách cơ bản, sâu rộng nền tư pháp nước nhà. Theo đó, nền tư pháp Việt Nam là nền tư pháp Xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, vì nhân dân, phục vụ nhân dân. Cải cách tư pháp phải gắn bó, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mở rộng hội nhập quốc tế. Đối với hệ thống Tòa án nhân dân, Nghị quyết 49/NQ-TW nêu rõ: “Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp”. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân theo hướng: “Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính”[4].

Xem tất cả 108 trang.

Ngày đăng: 25/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí