Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TỔ CHỨC DẠY HỌC DỰ ÁN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT
1.1. Cơ sở lý luận
Dạy học dự án là một trong những phương pháp dạy học hiện đại đang được quan tâm nghiên cứu và triển khai vào quá trình dạy học ở trường THPT nước ta. Dạy học dự án là quan điểm dạy học phát huy tính độc lập, tinh thần trách nhiệm của mỗi các nhân; giúp học sinh hình thành những năng lực cần thiết trong tương lai. Dạy học dự án được nghiên cứu từ rất lâu, trong chương này, tác giả tìm hiểu cơ sở lý luận của tổ chức DHDA ở những nội dung sau đây:
1.1.1. Quan niệm dạy học dự án
Cơ sở của khái niệm tiếp cận dự án trong DH được các nhà sư phạm Mỹ J. Dewey và S. Charles Peirce đưa ra và khẳng định rằng, tất cả mọi người dù già hay trẻ đều học bằng hoạt động thông qua những mối quan hệ với môi trường. Họ đã chỉ ra động cơ giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong học tập là việc đặt HS trong tình huống tự khám phá thế giới và chia sẻ những kết kết quả của quá trình khai thác kiến thức, quá trình giải quyết vấn đề. DHDA là một trong những cách tốt nhất để kích thích và duy trì động cơ học tập của HS. Điều đó phù hợp với quá trình sư phạm là sự học nãy sinh trong hành động.
Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu Lave (1998); Brown, Colin (1989) về khoa học nhận thức cũng chỉ ra rằng trong quá trình DH, GV phải phát huy vai trò tích cực của HS, đề ra cho người học các tình huống học tập và đòi hỏi người học phải chịu trách nhiệm trong hoạt động hợp tác. DHDA bằng cách tiếp cận giúp cho người học kiên trì theo đuổi một quá trình mục đích trong những mối quan hệ xã hội mà người học đã hiểu rõ mục đích cần có.
Khái niệm dự án là gì? Thuật ngữ dự án, tiếng Anh là “Project”, được hiểu theo nghĩa phổ thông là một đề án, một dự thảo hay một kế hoạch, cần được thực hiện nhằm đạt mục đích đề ra. Khái niệm DA được sử dụng phổ biến trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội và trong nghiên cứu khoa học. Sau đó, khái niệm DA đã đi từ lĩnh vực kinh tế, xã hội vào lĩnh vực giáo dục, đào tạo như một hình thức hay phương pháp dạy
học tạo điều kiện cho HS phát triển toàn diện [28]. Như thế dự án được hiểu là một kế hoạch trong đó có mục tiêu, thời gian, phương tiện, tài chính, vật chất, nhân lực và các nhiệm vụ cần thực hiện nhằm đạt được các mục tiêu đề ra.
Thế nào là DHDA? Khái niệm DHDA có nguồn gốc từ Châu Âu, bắt đầu xuất hiện ở Ý sang Pháp, Anh... Đến đầu thế kỉ XX, các nhà sư phạm Mĩ đã xây dựng cơ sở lý luận cho hình thức DH này và coi đó là một PPDH quan trọng để thực hiện quan điểm dạy học lấy HS làm trung tâm, nhằm khắc phục nhược điểm của DH truyền thống coi thầy giáo là trung tâm. Ban đầu, phương pháp DA được sử dụng trong dạy thực hành các môn kỹ thuật, về sau được dùng trong hầu hết các môn học khác [2].
Có thể bạn quan tâm!
- Tổ chức dạy học dự án trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trường THPT thị xã Đông Triều tỉnh Quảng Ninh - 1
- Tổ chức dạy học dự án trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trường THPT thị xã Đông Triều tỉnh Quảng Ninh - 2
- Yêu Cầu Của Dạy Học Phát Triển Năng Lực Học Sinh Trong Chương Trình Phổ Thông Mới
- Biểu Đồ Mức Độ Cần Thiết Của Phương Pháp Dhda
- Quy Trình Dạy Học Dự Án Trong Dạy Học Lịch Sử
Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.
Trong DHDA, các hoạt động học tập được thiết kế mang tính thiết thực, liên quan đến nhiều lĩnh vực kiến thức, gắn kiến thức nhà trường với những vấn đề thực tiễn. Xuất phát từ nội dung học, GV đưa ra một chủ đề với những gợi ý hấp dẫn, kích thích người học tham gia thực hiện. DA là một bài tập tình huống mà người học phải giải quyết bằng các kiến thức theo nội dung bài học. Học DA đặt người học vào tình huống có vấn đề nhưng việc giải quyết vấn đề đòi hỏi sự tự lực cao của người học. Khi người học được tự lựa chọn tiểu chủ đề và tự đặt ra vấn đề cần tìm hiểu nghiên cứu, người học sẽ hoàn toàn chủ động tích cực trong việc lập kế hoạch nghiên cứu, tìm kiếm, tổng hợp, xử lý thông tin để giải quyết vấn đề đặt ra.
Cách tiếp cận theo DA sẽ đem đến các cơ hội phát triển năng lực và những kiến thức chuyên sâu cho người học. Sau một thời gian làm việc, HS thấy được kết quả công việc của mình. GV có thể đánh giá được kết quả học tập của HS theo mục tiêu bài học. Học theo DA mang các vấn đề thực tế vào môi trường lớp học, đó là các vấn đề thường vô cùng thú vị đối với sự tò mò của học sinh. Trong một DA học tập, các hoạt động được HS thực hiện không chỉ giới hạn trong việc đọc, nghiên cứu và viết mà các hoạt động được trải dài trong một khoảng thời gian để hoàn thành quá trình cơ bản áp dụng kiến thức vào thực tế.
Mỗi chủ đề dự án đều bắt đầu từ thực tế môi trường nơi các em sống và hình thành nên cảm hứng để các em tiến hành DA. Thế giới của học sinh rất giàu trí tưởng tượng và được định hình thông qua xã hội mà các em đang sống. Mỗi thời điểm trong năm đều tạo ra sự khác biệt. Đó là lý do vì sao học theo DA là một cách học độc đáo, đa dạng và mang lại kết quả [6].
Từ việc tiếp cận đến dự án đã có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về DHDA. Nhiều tác giả coi dạy học DA là một quan điểm dạy học. Cũng có người coi là một hình thức dạy học vì khi thực hiện một DA, có nhiều PPDH cụ thể được sử dụng. Tuy nhiên, dạy học dự án cũng có thể coi là một PPDH phức hợp.
Theo các tác giả Trịnh Văn Biểu, Phan Đồng Châu Thủy, Trịnh Lê Hồng Phương thì “Dạy học dự án là một hình thức dạy học hay PPDH phức hợp, trong đó dưới sự hướng dẫn của GV, người học tiếp thu kiến thức và hình thành kỹ năng thông qua việc giải quyết một bài tập tình huống (DA) có thật trong đời sống, theo sát chương trình học, có sự kết hợp giữa lý thuyết với thực hành và tạo ra các sản phẩm cụ thể” [2].
Trong DHDA, HS có cơ hội trao đổi, thương lượng với người khác thông qua làm việc theo nhóm. HS có vai trò đặc biệt trong việc xây dựng kế hoạch và thực hiện DA. Bằng DHDA học sinh được rèn luyện về phương pháp, ý thức hợp tác trong lao động, HS được đóng các vai trò khác nhau để tham gia thực hiện các mục đích học tập. Về phía GV, quá trình chuyển giao nhiệm vụ học tập cho HS thì GV như người hướng dẫn, tạo thuận lợi, kích thích hứng thú của HS, làm cho HS hiểu rõ quá trình học tập. Về nhiệm vụ học tập trong DHDA liên quan đến nhiều nội dung và mang tính liên môn. Các hoạt động học tập của HS xuất phát từ các tình huống mang tính thực tế, gắn liền với đời sống của HS. HS phải tự tìm cách giải quyết các vấn đề thực tiễn. GV là người xác định các hoạt động phù hợp và định hướng HS, đề ra nhiệm vụ học tập nhằm phát triển động cơ và tạo hứng thú cho học sinh.
1.2.2. Đặc điểm và phân loại DHDA
Theo các tác giả Trịnh Văn Biểu, Phan Đồng Châu Thủy, Trịnh Lê Hồng Phương [2], DHDA có các đặc điểm sau đây:
Người học là trung tâm của dạy học dự án: DHDA chú ý đến nhu cầu, hứng thú của người học, người học được trực tiếp tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú của cá nhân. DHDA là một PPDH quan trọng để thực hiện quan điểm dạy học lấy HS làm trung tâm. Người học tham gia tích cực và tự lực vào các giai đoạn của quá trình dạy học, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch đến việc thực hiện DA, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện. GV
chủ yếu đóng vai trò tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ, khuyến khích tính tích cực, tự lực, tính trách nhiệm, sự sáng tạo của người học. Người học không chỉ nghe, ghi nhớ, nhắc lại mà cần thu thập thông tin từ rất nhiều nguồn khác nhau rồi phân tích, tổng hợp, đánh giá và rút ra tri thức cho mình. Người học không chỉ tiếp thu kiến thức về các sự kiện mà còn áp dụng lý thuyết vào thực tế, rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề.
Dạy học thông qua các hoạt động thực tiễn của một dự án: Trong quá trình thực hiện DA, người học tiếp thu kiến thức và hình thành kỹ năng thông qua các hoạt động thực tiễn. Chủ đề của DA luôn gắn liền với những tình huống của thực tiễn xã hội, với những nghiệp cụ thể, đời sống có thực… Các DA học tập góp phần gắn liền nhà trường với thực tiễn đời sống xã hội, với địa phương, với môi trường và có thể mang lại những tác động tích cực đối với xã hội.
Hoạt động học tập phong phú và đa dạng: Nội dung DA có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc môn học khác nhau nhằm giải quyết một vấn đề có thực mang tính thách đố. DA có tính liên môn, có nghĩa là nhiều môn học liên kết với nhau. Một DA dù là của môn nào, cũng phải đòi hỏi kiến thức của nhiều môn học để giải quyết. Đặc điểm này giúp DA gần với thực tế hơn vì trong cuộc sống ta cần kiến thức tổng hợp để làm việc. Trong quá trình thực hiện DA có sự kết hợp giữa nghiên cứu và vận dụng lý thuyết vào trong hoạt động thực tiễn, thực hành. Thông qua đó, kiểm tra, cũng cố, mở rộng hiểu biết về lý thuyết cũng như rèn luyện kỹ năng hành động, tích lũy kinh nghiệm thực tiễn.
Trong DHDA, việc kiểm tra đánh giá đa dạng hơn, kiểm tra qua hoạt động nhiều hơn, nên giảm kiểm tra kiến thức thuần túy và kiểm tra viết. Trong DHDA, phương tiện học tập đa dạng hơn, công nghệ thông tin được tích hợp vào quá trình học tập.
Kết hợp làm việc theo nhóm và làm việc cá nhân: Các DA thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự phân công và cộng tác làm việc giữa các thành viên. Làm việc theo nhóm giúp cho sản phẩm chất lượng hơn, tốn ít thời gian hơn vì nó kết hợp và phát huy được sở trường của mỗi cá nhân. Các DA đòi hỏi kỹ năng cộng tác làm việc giữa các thành viên, giữa người học và GV cũng như với các lực lượng xã hội khác cùng tham gia trong DA. Nhờ đó, hoạt động trong DHDA có tính xã hội cao.
Quan tâm đến sản phẩm của hoạt động: Trong quá trình thực hiện DA, người ta quan tâm nhiều đến các sản phẩm tạo ra. Sản phẩm có thể là vật chất hoặc phi vật chất,
một bản thiết kế hoặc một kế hoạch. Để có một sản phẩm tốt do người học tự làm, GV phải khéo léo điều chỉnh DA sao cho sản phẩm của DA là kết quả của quá trình thực hiện một công việc thực tế chứ không chỉ là trình bày lại các thông tin thu thập được. GV cùng với người học đánh giá sản phẩm dựa trên tính thực tế, tính hữu ích của sản phẩm và sự kết hợp làm việc giữa các thành viên trong nhóm. Những sản phẩm đem lại nhiều ích lợi đối với xã hội thường được đánh giá cao. Chúng có thể được công bố, giới thiệu rộng rãi và đưa vào sử dụng trong thực tế.
DHDA có thể được phân loại dựa theo nhiều cơ sở khác nhau. Sau đây là một số cách phân loại chính [2]:
Phân loại theo lĩnh vực hoạt động của DA: Dự án về giáo dục; Dự án về môi trường; Dự án về văn hóa; Dự án về kinh tế,…
Phân loại theo nội dung chuyên môn: Dự án trong một môn học; Dự án liên môn (nội dung bao gồm nhiều môn học khác nhau); Dự án ngoài chương trình (DA không liên quan trực tiếp đến nội dung các môn học trong chương trình học tập của người học).
Phân loại theo quy mô: Người ta phân ra các DA nhỏ, vừa, lớn dựa vào: Thời gian, chi phí; Số người tham gia: nhóm, tổ, lớp, trường, liên trường… Phạm vi tác động (ảnh hưởng) của dự án: trong trường, ngoài trường, khu vực,… K.Frey (2005) đề nghị cách phân chia như sau: Dự án nhỏ: thực hiện trong một số giờ học, có thể từ 2 - 6 giờ học; Dự án trung bình: thực hiện trong một ngày đến một tuần hoặc 40 giờ học; Dự án lớn: thực hiện với quỹ thời gian lớn, trên một tuần và có thể kéo dài nhiều tháng.
Phân loại theo tính chất công việc: Dự án “tham quan và tìm hiểu”. Ví dụ: Dự án tham quan và tìm hiểu một quy trình sản xuất, dịch vụ (rượu bia, xi măng, đồ gốm…); Dự án tham quan và tìm hiểu việc sử dụng khí oxi ở bệnh viện,…; Dự án “thiết lập một cơ sở sản xuất, kinh doanh”. Ví dụ: DA xây dựng một cơ sở xử lí hạt giống (lúa, bắp,…); DA mở một cửa hàng bán thực phẩm chế biến,…; Dự án “nghiên cứu, học tập”. Ví dụ: DA xác định độ PH của đất trồng; Dự án khảo sát môi trường chăn nuôi, trồng trọt,…; Dự án “tuyên truyền giáo dục, quảng cáo, tiếp thị sản phẩm”. Ví dụ: DA tuyên truyền giáo dục ý thức bảo vệ môi trường; DA giới thiệu cho nông dân cách nuôi trồng thủy sản, sử dụng phân bón hóa học, thuốc phòng trừ sâu bệnh…
DA tiếp thị sản phẩm cho các cơ sở sản xuất (oxi sạch, thuốc trừ sâu, phân bón,…); Dự án “tổ chức thực hiện các hoạt động xã hội”. Ví dụ: DA trồng và chăm sóc cây xanh; DA xây dựng trường học “xanh, sạch, đẹp”…
1.1.3. Tiêu chuẩn thành công một bài học được tổ chức DHDA
Có rất nhiều dự án được tiến hành trong quá trình dạy học. Một dự án thành công là khi nó đạt được sự cân bằng giữa khả năng thực hiện của HS với ý tưởng của GV, chỉ rõ những công việc HS cần làm. Dưới đây là một số tiêu chuẩn giúp nhận diện rõ thế nào là bài học theo DA hiệu quả:
HS là trung tâm của quá trình DH: Bài học theo DA được thiết kế cẩn thận, lôi cuốn HS vào những nhiệm vụ mở và có tính thực tiễn cao. Các nhiệm vụ của DA kích thích khả năng quyết định, tạo cảm hứng say mê của HS trong quá trình thực hiện và tạo ra sản phẩm. GV giữ vai trò là người hỗ trợ và hướng dẫn HS thực hiện các công việc của DA. HS lĩnh hội kiến thức bài học, hợp tác, làm việc với nhau trong các nhóm, phát huy tối đa năng lực cá nhân khi đảm nhận những vai trò khác nhau.
Dự án được chuẩn bị và lên kế hoạch chu đáo: Một giờ học tốt là một giờ học phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của cả người dạy và người học nhằm nâng cao tri thức, bồi dưỡng năng lực hợp tác, năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn, bồi dưỡng phương pháp tự học, tác động tích cực đến tư tưởng, tình cảm, đem lại hứng thú học tập cho người học. Ngoài những yêu cầu có tính chất truyền thống như bám sát mục tiêu giáo dục, nội dung dạy học, đặc trưng môn học; phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh; còn có những yêu cầu mới như GV tổ chức các hoạt động học tập cho HS theo hướng chú ý đến việc rèn luyện phương pháp tư duy, khả năng tự học, nhu cầu hành động và thái độ tự tin; chú trọng cả hoạt động dạy của người dạy và hoạt động học của người học. Về bản chất, đó là giờ học có sự kết hợp giữa học tập cá thể (hình thức học cá nhân) với học tập hợp tác (hình thức học theo nhóm, theo lớp); chú trọng kết hợp học với hành, nâng cao tri thức với rèn luyện các kỉ năng, gắn với thực tiễn cuộc sống; phát huy thế mạnh của các PPDH tiên tiến hiện đại; các phương tiện, thiết bị dạy học và những ứng dụng của công nghệ thông tin...; chú trọng cả hoạt động đánh giá của GV và tự đánh giá của HS.
Để có được những giờ dạy học tốt, người GV cần lên kế hoạch và chuẩn bị bài hiệu quả. Mỗi bài học đều có những phương pháp và kĩ thuật dạy học riêng. Đối với
DHDA, để thành công GV phải phác họa các DA cụ thể trong đầu. Phải bám sát vào các mục tiêu dạy học, nếu không mục đích của DA sẽ mơ hồ và kết quả học tập mong đợi từ phía HS không thực hiện được. Khi thiết kế DA, điều quan trọng là phải chắc chắn việc lập kế hoạch hành động sẽ giúp HS nhận biết được mục tiêu học tập dự kiến. Căn cứ vào mục tiêu bài học và chuẩn kiến thức, kĩ năng, GV lựa chọn các bài học ưu tiên trong chương trình để tiến hành DHDA.
Dự án tập trung vào những mục tiêu học tập quan trọng gắn với các chuẩn: Những DA tốt được phát triển dựa trên những nội dung cốt lõi của chương trình đáp ứng các chuẩn quốc gia và địa phương. DA có các mục tiêu rõ ràng gắn với các chuẩn và tập trung vào những hiểu biết của HS sau quá trình học. Từ việc định hướng vào mục tiêu, GV sẽ lựa chọn hình thức DH phù hợp, lập kế hoạch đánh giá và tổ chức các hoạt động dạy và học. Kết quả của DA được thể hiện kết tinh trong sản phẩm và quá trình thực hiện nhiệm vụ, ví dụ phần thuyết trình đầy thuyết phục hay ấn phẩm thông tin thể hiện sự lĩnh hội các chuẩn nội dung và mục tiêu dạy học.
Dự án được định hướng theo bộ câu hỏi khung chương trình: Câu hỏi khung chương trình sẽ giúp các DA tập trung vào những hoạt động DH trọng tâm. HS được giới thiệu về DA thông qua các câu hỏi gợi mở những ý tưởng lớn, xuyên suốt và có tính liên môn. HS sẽ buộc phải tư duy sâu hơn về các vấn đề về nội dung của môn học theo các chuẩn và mục tiêu. Có ba dạng câu hỏi khung chương trình: Câu hỏi khái quát, câu hỏi bài học và câu hỏi nội dung. Có thể hình dung sơ đồ hệ thống câu hỏi khung như sau:
Hình 1.1. Sơ đồ câu hỏi khung [3]
CHKQ là các câu hỏi rộng, có tính mở, đề cập đến những ý tưởng lớn và các khái niệm xuyên suốt. Câu hỏi loại này thường mang tính liên môn, giúp HS hiểu được mối quan hệ giữa các môn học. Khi xây dựng CHKQ trước hết hãy viết câu hỏi theo ngôn ngữ của người lớn để bao hàm những nội dung thiết yếu, sau đó viết lại theo ngôn ngữ của HS. Đừng bận tâm vào câu chữ, chỉ nên tập trung vào suy nghĩ, tránh xa các câu hỏi yêu cầu định nghĩa hoặc kiến thức về một quá trình đơn giản [2]. Đối với câu hỏi loại này yêu cầu HS phải tư duy, phân tích và biết liên hệ kiến thức vào thực tiễn cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên, không phải CHKQ nào cũng dễ dàng bởi nó mang tính tổng quát và trừu tượng nên HS khó tiếp cận.
Các CHBH được gắn trực tiếp với DA, hỗ trợ việc tìm kiếm lời giải cho câu hỏi khái quát. CHBH thường được gắn với nội dung một bài học cụ thể. CHBH có những đặc điểm riêng: Có đáp án mở, lôi cuốn HS vào việc khám phá những ý tưởng cụ thể đối với từng bài học, chủ đề hoặc môn học. Đưa ra những vấn đề hoặc kích thích sự tranh luận của HS nhằm bổ trợ cho CHKQ. Khuyến khích sự khám phá, duy trì sự hứng thú, cho phép HS trả lời theo ý tưởng sáng tạo.
Các CHND là loại câu hỏi đóng, có câu trả lời rõ ràng, đúng và cụ thể. Loại câu hỏi này dựa vào tiêu chuẩn về mục tiêu, dạy học, dùng để kiểm tra khả năng ghi nhớ của HS, đòi hỏi các yêu cầu về kiến thức và kỹ năng đọc hiểu để trả lời. Thông thường chúng ta có thể rút ra một vài CHND ngay từ chuẩn kiến thức [25]. Các CHND giúp HS tập trung vào những thông tin xác thực cần tìm hiểu trong bài như xác định “ai”, “cái gì”, “ở đâu” và “khi nào”. Như thế CHND thường mang tính thực tiễn cao, bám sát các chuẩn và mục tiêu đề ra.
Dự án đòi hỏi các hình thức đánh giá đa dạng và thường xuyên: Ngay từ khi triển khai DA, các kết quả dự kiến cần phải được làm rõ và phải luôn được rà soát nhiều lần để kiểm chứng mức độ lĩnh hội bằng các phương pháp đánh giá khác nhau. HS sẽ được xem mẫu và hướng dẫn trước để thực hiện công việc có chất lượng nhất, phải biết rõ điều gì đang chờ đợi ngay từ khi bắt đầu DA. Cần phải tạo cơ hội để rà soát, phản hồi hay điều chỉnh trong suốt quá trình thực hiện DA.
Dự án có liên hệ với thực tế: DA phải gắn với đời sống thực tế của HS, có thể mời các chuyên gia bên ngoài cùng tham gia để tạo ra những tình huống DH. HS có