5. Tính Ổn Định Của Hệ Sinh Thái (Ecosystem Stability)

thành phần kế tiếp, làm cho toàn hệ mất cân bằng, suy thoái. Hệ sinh thái càng đa dạng, nhiều thành phần thì trạng thái cân bằng của hệ càng ổn định. Vì vậy, các hệ sinh thái tự nhiên bền vững có đặc điểm là có rất nhiều loài, mỗi loài là thức ăn cho nhiều loài khác nhau. Ví dụ như: trên các cánh đồng cỏ, chuột thường xuyên bị rắn, chó sói, cáo, chim ưng, cú mèo... săn bắt. Bình thường số lượng chim, trăn, thú, chuột cân bằng với nhau. Khi con người tìm bắt rắn và chim thì chuột mất kẻ thù, thế là chúng được dịp sinh sôi nảy nở.


II.4. SỰ MẤT CÂN BẰNG CỦA CÁC HỆ SINH THÁI

Một hệ sinh thái đang cân bằng có thể mất cân bằng vì những tác động thiên nhiên hoặc nhân tạo. nếu tác động không quan trọng, xảy ra trong một thời đoạn ngắn, thì quán tính và tính hoàn nguyên sẽ đưa hệ sinh thái về trạng thái ban đầu.

Nếu tác động lớn, kéo dài, môi trường bị thay đổi rộng lớn, sâu sắc thì quần xã sinh vật trong hệ sinh thái sẽ biến đổi qua một số giai đoạn, cho tới khi có một quần xã mới, thích nghi và trưởng thành trong bối cảnh mới được hình thành. Quần xã này được gọi là quần xã đỉnh cực (climax community). Sự chuyển từ một quần xã này sang một quần xã khác gọi là diễn thế (succession).

Diễn thế nguyên sinh (primary succession) là sự phát triển từng bước của các quần chủng tại một địa bàn trước đó chưa có giống loài nào cư trú. Thí dụ địa y sinh trưởng trên mặt núi đá, đến một giai đoạn nhất định, đá bị phong hóa nhiều trở thành đất, đại y cùng sống với rêu, nấm, vi khuẩn sẽ xuất hiện và cứ thế tiến hóa dần qua các quần xã trung gian (intermediate communities) cho tới khi đạt tới một quần xã đỉnh cực (climax).

Diễn thế thứ sinh (secondary succession) là sự thay thế một quần xã bị tiêu diệt toàn bộ hoặc một phần lớn thành quần xã mới. Thí dụ sự xuất hiện lấn át các quần chủng thứ sinh cho tới khi đạt tới quần xã đỉnh cực trên địa bàn của một khu rừng nguyên sinh đã bị hỏa hoạn thiên nhiên hoặc do người gây ra phá hủy; hoặc sự hồi phục lại lần lượt các quần xã trung gian với sinh vật liên quan cho tới khi đạt tới quần xã đỉnh cực trên một cánh đồng hoang.


II.5. TÍNH ỔN ĐỊNH CỦA HỆ SINH THÁI (Ecosystem Stability)

Hệ sinh thái không bao giờ tĩnh tại mà luôn luôn thay đổi. Môi trường của hệ sinh thái thay đổi, các thành phần trong hệ cũng luôn luôn biến động, tính ổn định của hệ là ổn định động (dynamic stability), nghĩa là trong lúc số lượng, chất lượng của các thành phần của hệ luôn luôn thay đổi thì cấu trúc và cơ chế hoạt động của hệ, tỷ lệ và tương tác giữa các thành phần xem như vẫn nguyên. Lấy một hệ sinh thái một khu rừng làm thí dụ. Nếu trong một thời gian khoảng 50 năm, hàng năm đến một thời điểm nhất định ta lại quan sát sẽ thấy rằng mặc dầu nhiều cây con đã chết, cây non trẻ sinh sôi nẩy nở nhưng:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.

- Số lượng giống loài sinh vật không đổi;

- Các giống loài vẫn giữ nguyên;

- Số lượng cá thể trong các chủng quần không đổi

Thì có thể kết luận rằng hệ sinh thái của khu rừng đó là ổn định.

Các nhân tố của tính ổn định của hệ sinh thái

Sự ổn định của hệ sinh thái phụ thuộc vào các nhân tố khống chế quy mô của các quần chủng trong hệ. Các nhân tố này có thể phân thành 2 nhóm: nhóm kích thước quần chủng tăng qui mô và nhóm hạn chế quy mô.


II.5.1. Nhóm gây tăng qui mô thường gồm có:

- Các nhân tố sinh vật: tỷ lệ sinh đẻ, khả năng thích nghi với biến động môi trường, khả năng di cư đến chổ mới, khả năng cạnh tranh, khả năng trốn tránh, khả năng tự vệ và khả năng tìm thức ăn, nguồn thức ăn;

- Các nhân tố phi sinh vật: ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, môi trường hóa học.

-

II.5.2. Nhóm làm giảm quy mô thường có

- Các nhân tố sinh vật: thú săn mồi, bệnh tật, vật ký sinh, vật cùng cạnh tranh, thiếu thức ăn, thiếu nơi ở.

- Các nhân tố phi sinh vật: khí hậu khắc nghiệt, thiếu nước, môi trường hóa học xấu.

Cân bằng giữa hai nhóm nhân tố trên quyết định sự ổn định về qui mô của các quần chủng trong hệ sinh thái. Khả năng của một hệ sinh thái chống lại các thay đổi gọi là quán tính (inertia) sinh thái. Khả năng trở lại trạng thái cân bằng ban đầu gọi là khả năng hoàn nguyên (resilience).


II.6. TÁC ĐỘNG CỦA CON NGƯỜI LÊN CÁC HỆ SINH THÁI

Để duy trì sự sống và phát triển con người không ngừng tác động lên các hệ sinh thái ở trên trái đất. Ngày nay không còn hệ sinh thái nào trên trái đất không chịu tác động của hoạt động con người. Các tác động này có thể xếp thành ba loại sau:


II.6.1. Thay đổi các nhân tố sinh vật

- Đem các vật cạnh tranh mới vào các hệ sinh thái qua việc đem giống cây con mới vào trồng trọt và chăn nuôi, dẫn tới sự hạn chế, thậm chí tiêu diệt giống các loài bản địa.

- Tiêu diệt hoặc đưa thêm các thú ăn thịt vào hệ sinh thái. Thí dụ tiêu diệt chó sói, hổ, báo, sư tử làm thay đổi mạng lưới thức ăn, làm mất cân bằng sinh thái; đem các thú ăn mồi để tiêu diệt một loài có hại nhưng lại ăn luôn cả những vật tạo khác, tạo nên những thay đổi không mong muốn trong hệ sinh thái.

- Đem các vật sinh bệnh vào các hệ sinh thái. Thí dụ các nguồn bệnh mới qua sản phẩm thực vật, động vật vào các vùng không có điều kiện thiên nhiên hạn chế sự sinh trưởng của các nguồn bệnh này.

II.6.2. Thay đổi nhân tố lý, hóa‌

- Gây ô nhiễm không khí, nước, đất bằng các hoạt động sản xuất, sinh hoạt, tạo nên nhừng thay đổi về nhiệt độ, ánh sáng, âm thanh, bức xạ; thay đổi thành phần và tính chất hóa học của môi trường, qua đó biến đổi hoặc phá hủy cân bằng sinh thái.

- Làm cạn kiệt tài nguyên: do sử dụng quá ngưỡng hồi phục tài nguyên tái tạo được, hoặc do thiếu điều tiết chế trong khai thác các tài nguyên không tái tạo, con người đã làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên cần thiết cho bản thân mình cũng như cho các quần chủng khác tạo nên mất cân bằng nghiêm trọng của các hệ sinh thái.


II.6.3. Giản hóa các hệ sinh thái

Trong sự phát triển trồng trọt và chăn nuôi vì lợi ích kinh doanh con người đã thay thế các hệ sinh thái phức tạp bằng hệ sinh thái đơn giản, độc canh một loài cây hoặc độc nuôi một loài con. Các hệ sinh thái này rất mong manh với sâu bệnh, dịch bệnh.

Một trong những tác động chủ yếu của con người lên hệ sinh thái là đã làm cho các hệ sinh thái của thế giới bị đơn giản hóa. Sự phát triển nông nghiệp đã tạo nên những hệ sinh thái đơn giản và rút ngắn các dây chuyền thức ăn đến mức tối thiểu thông qua việc loại trừ hàng trăm loài cây, cỏ để thay vào đó một vài giống cây lương thực. Mục đích của con người là tăng hiệu quả, năng suất và sản lượng, nhưng đồng thời vô tình làm tăng tính mất ổn định và khả năng dễ bị phá hoại của hệ sinh thái. Khi chỉ có một loài cây lương thực được trồng thì khả năng xảy ra dịch bệnh, bùng phát dịch hại có thể phá hủy phần lớn hay toàn bộ hệ. Con người cũng đã đơn giản hóa một cách cao độ các loài động vật bằng cách thay thế hệ động vật phong phú gồm nhiều loài bởi một vài loại gia súc đơn giản. Theo nhiều nghiên cứu cho thấy bất kỳ sự thay đổi ở một bộ phận nào đó của hệ sinh thái lại gây nên những hậu quả nghiêm trọng đối với các thành phần khác của hệ.

Một tác động không nhỏ của con người đến hệ sinh thái là gây ô nhiễm môi trường trong hoạt động nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, sinh hoạt. Chất gây ô nhiễm sẽ làm biến đổi môi trường một cách nhanh chóng hoặc lâu dài, gây mất cân bằng sinh thái, làm ảnh hưởng xấu đến đời sống sinh vật trên Trái đất, bao gồm cả chính bản than con người.


II.7. CÁC HỆ SINH THÁI CHÍNH TRÊN THẾ GIỚI

II.7.1 Các hệ sinh thái tự nhiên

Hệ sinh thái tự nhiên trên thế giới được xếp thành 3 nhóm: các hệ sinh thái trên cạn, hệ sinh thái nước mặn và hệ sinh thái nước ngọt (Nguyễn Văn Tuyên, 2000).

II.7.1.1. Các hệ sinh thái trên cạn

Các HST trên cạn được đặc trưng bởi các quần hệ thực vật, vì ở đây thảm thực vật

chiếm sinh khối lớn nhất. Theo các nhà khoa học, trên thế giới có các hệ sinh thái tự nhiên trên cạn sau:

- Đài nguyên phân bố ở chung quanh Bắc Cực (Grinlen, lục địa Bắc Mỹ và Orasia) là một vùng rộng lớn, bao la rất ít cây cối vì băng tuyết. Số loài thực vật rất ít, sinh

trưởng kém và thời gian sinh trưởng ngắn (khoảng 60 ngày), đặc trưng có cỏ bông, rêu, địa y. Về động vật có tuần lộc, hươu Caribu, thỏ cực, chó sói cực, chuột Lemmus, Tacmingan, Pipit, muỗi và ruồi đen (Nguyễn Văn Tuyên, 2000).

- Rừng lá nhọn (rừng lá kim hay rừng tai ga) phân bố ở Bắc Mỹ, Bắc Âu và Bắc Á, hay còn gọi là rừng ôn đới thường xanh. Thực vật sống ở đây gồm có thông núi, thông đỏ, Sequoia (cao 81 - 110m, đường kính 12m, sống 2000 - 3000 năm), một ít liễu và bạch dương. Đặt biệt ở đầm lầy Canada có pH chua và có nhiều rêu. Ở vùng này, lượng mưa có thể lên đến hơn 6000 mm/năm, do vậy người ta còn gọi vùng này là rừng mưa ôn đới, mùa hè có sương mù.

- Rừng rụng lá ôn đới ở Đông Bắc Mỹ, khắp Châu Âu, cuối Nam Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và Úc. Điểm đặc trưng là số lượng loài cây nhiều, mưa phân bố đều, rất nhiều loài động vật phong phú, đặc biệt là chim và động vật có vú.

- Rừng mưa nhiệt đới là hệ sinh thái phát triển nhất trong các hệ sinh thái rừng. Nhiệt độ cao, lượng mưa lớn (2.500 – 4.500 mm/năm, ở Camởun 10.170 mm/năm, Atsam 11.600 mm/năm). Rừng mưa nhiệt đới phân bố ở lưu vực sông Amazon, sông Congo, khu vực Ấn Độ, Mã Lai, Tây Phi. Phần lớn thực vật là dây leo, thực vật bì sinh (lan, rêu, địa y), cây cao trung bình 46 – 55 m, có nhiều rễ phụ, rễ bạnh, bò như rắn trên mặt đất. Rừng nhiệt đới là quê hương của cây tếch, cây boni. Trong các khu vực rừng mưa nhiệt đới thì rừng Ấn Độ, Mã Lai giàu nhất, trong 1km2 có hàng vạn loài; rừng Châu Phi là nghèo nhất. Động vật có nhiều loài chim, lưỡng thê, linh trưởng, nai, hoẵng, heo rừng, …

- Thảo nguyên (savan) có khí hậu ấm áp, có mùa khô kéo dài. Điển hình là savan Châu Phi – nơi có nhiều vườn thú lớn. Động vật có sơn dương, ngựa vằn, trâu, hươu cao cổ,… Đã có thời kỳ 42% đất trên thế giới là đồng cỏ. Đồng cỏ lớn nhất là thảo nguyên phần Liên Xô (cũ) và Xiberi. Động vật có các loài gậm nhấm ở hang, các loài có guốc đơn điệu, thằn lằn, rắn, bò rừng, sơn dương, côn trùng (châu chấu, ve), chim sẻ, chuột, hươu, thỏ.

- Saparan (rừng và cây bụi là cứng cận nhiệt) ở quanh bờ Địa Trung Hải, ở California, Mehico, bờ Nam Châu Úc, Chilê. Đặc trưng của hệ sinh thái này là mùa đông dịu dàng và có mưa; mùa hè dài, nóng và khô; cây lá cứng, dày và thường xanh.

- Hoang mạc và bán hoang mạc có các loài thực vật chịu hạn như cây Metka (rễ đâm sâu 30m), cây xương rồng, ngải đại kích. Động vật có chuột nhảy, chuột gecbin, chó Dingo ở Úc, chó hoang ở Châu Phi, rất nhiều côn trùng.

II.7.1.2. Các hệ sinh thái nước mặn

Các HST nước mặn bao chiếm toàn bộ các biển và đại dương. Biển và đại dương chiếm tới 79% diện tích bề mặt trái đất. Các sinh vật đều thích nghi với nồng độ muối cao đồng thời thực vật rất nghèo về thành phần loài, chỉ có tảo và vi khuẩn.

a. Dựa vào độ sâu có thể phân chia biển và đại dương thành các vùng sinh thái:

- Thềm lục địa và vùng tiếp giáp với bờ biển có bề mặt đáy tương đối bằng phẳng có mực nước sâu trung bình 200 – 300m (có thể tới 500m).

- Sườn lục địa ứng với vùng đáy dốc có mực nước sâu từ 500m đến 3500m.

- Đáy đại dương có mực nước sâu từ 3500m trở lên.

b. Dựa theo chiều ngang từ bờ ra khơi có thể phân biệt:

- Vùng ven bờ ứng với vùng triều và dưới triều. Ở đây biển không sâu, có đủ ánh sáng và chịu ảnh hưởng của sóng và thủy triều mạnh. Quần xã vùng ven bờ thay đổi tùy theo từng vùng biển. Nhìn chung, vùng ven bờ ở ôn đới thì có tảo chiếm ưu thế, còn vùng ven biển nhiệt đới có rừng ngập mặn rất độc đáo.

- Vùng biển khơi bắt đầu từ sườn dốc lục địa trở đi. Động vật trong vùng này thay đổi theo độ sâu: càng xuống sâu số lượng càng giảm. Cá chỉ sống tới độ sâu 6000m, tôm cua 8000, mực 9000 còn sâu hơn chỉ có một số loài đặc trưng.

II.7.1.3 Các hệ sinh thái nước ngọt

Thành phần các loài sinh vật ở môi trường nước ngọt kém đa dạng hơn môi trường nước mặn. Trong đa số các HST nước ngọt, sinh vật sản xuất chủ yếu là tảo, thực vật thủy sinh có hoa, động vật tiêu thụ tạo nên phần cơ bản của sinh khối gồmđại diện của 4 nhóm: cá, giáp xác, côn trùng nước và thân mềm. Các HST nước ngọt có thể chia thành 2 dạng:

- Hệ sinh thái nước tù bao gồm các HST đầm, ao và hồ.

- Hệ sinh thái nước chảy bao gồm các sông và suối.


II.7.2 Hệ sinh thái nhân tạo

Hệ sinh thái nhân tạo là hệ sinh thái do con người tạo ra mới hoàn toàn hoặc dựa trên nền tảng của hệ sinh thái nguyên sinh đã bị phá hủy. Ở nơi đó là những quần xã sinh vật khác nhau được lặp lại nhiều lần trong điều kiện môi trường thay đổi ít nhiều. Các quần thể nuôi trồng cao sản được phát triển trong điều kiện tối ưu có thể đáp ứng lâu dài những nhu cầu ngày càng tăng của con người về năng suất, số lượng và chất lượng sản phẩm. Có hai loại hệ sinh thái nhân tạo lớn là hệ sinh thái đô thị và hệ sinh thái

nông nghiệp.


II.8. VÒNG TUẦN HOÀN VẬT CHẤT

Vòng tuần hoàn vật chất trong tự nhiên thông qua các quá trình biến đổi hóa học, lý học và sinh học. Sự trao đổi vật chất trong hệ sinh thái là một giai đoạn trong các chu trình của vật chất trong tự nhiên hay còn gọi là chu trình sinh địa hóa. Các quá trình tổng hợp chất hữu cơ, sử dụng chất hữu cơ và phân giải chất hữu cơ là ba khâu không thể thiếu và luân phiên nhau một cách có trình tự nhất định trong hệ sinh thái. Sau đây là một số vòng tuần hoàn quan trọng trong hệ sinh thái:


II.8.1 Chu trình cacbonic

Cacbon tham gia vào chu trình ở dạng khí cacbon dioxit (CO2) có trong khí quyển. Trong khí quyển hàm lượng CO2 rất thấp, chỉ khoảng 0,03%, nhưng các dạng dự trữ cacbon rất

phong phú và đa dạng (đó là than đá, dầu mỏ, khí đốt, CaCO3). Chu trình cacbon là chu trình quan trọng nhất của con người. Bởi chúng là nhân tố không thể thiếu trong quá trình quang hợp tạo ra chất hữu cơ để duy trì sự sống trên Trái đất. Tuy nhiên khi nồng độ CO2 trong khí quyển cao làm khí hậu nóng hơn, gây ra hiện tượng hiệu ứng nhà kính.


Hình 2 3 Chu trình cacbon Tôn Thất Pháp 2006 II 8 2 Chu trình nitơ Chu trình nitơ về 1

Hình 2.3 Chu trình cacbon (Tôn Thất Pháp, 2006).


II.8.2 Chu trình nitơ

Chu trình nitơ về cơ bản cũng tương tự như các chu trình khí khác, được sinh vật sản xuất hấp thụ và đồng hoá rồi được chu chuyển qua các nhóm sinh vật tiêu thụ, cuối cùng bị sinh vật phân huỷ trả lại nitơ phân tử cho môi trường. Tuy nhiên quá trình này diễn ra phức tạp hơn nhiều, tuy vậy chu trình nitơ là chu trình xảy ra nhanh và liên tục. Do tính chất phức tạp của chu trình bao gồm nhiều công đoạn theo từng bước: sự cố

định đạm, sự amôn hoá, nitrit hoá, nitrat hoá và phản nitrat

Hình 2 4 Chu trình nitơ Tôn Thất Pháp 2006 II 9 NHÂN TỐ MÔI TRƯỜNG ẢNH HƯỚNG 2


Hình 2.4 Chu trình nitơ (Tôn Thất Pháp, 2006)



II.9. NHÂN TỐ MÔI TRƯỜNG ẢNH HƯỚNG ĐẾN SỰ ĐA DẠNG HỆ SINH THÁI

Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự đa dạng hệ sinh thái, song người ta thường phân ra thành hai nhóm chính: nhóm các yếu tố vô sinh và những yếu tố sinh học với các mối quan hệ sinh học trong hệ.


II.9.1 Sự tác động của các yếu tố vô sinh đến sự đa dạng hệ sinh thái

Có rất nhiều yếu tố vô sinh tác động lên hệ sinh thái, nhìn chung có một số nhân tố quan trọng sau:

II.9.1.1 Nhiệt độ

Nhiệt độ ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến đời sống của các loài. Vì vậy, mỗi vùng nhiệt độ khác nhau có những nhóm loài sinh vật đặc trưng. Dựa vào nhiệt độ, người ta chia sinh vật thành hai nhóm: nhóm biến nhiệt và nhóm đẳng nhiệt.

Những loài động vật, thực vật sống ở nơi nhiệt độ quá thấp hoặc quá cao có những cơ chế riêng để duy trì cuộc sống của mình: có long dày, nhiều mỡ, có các khoang chống nóng (ở côn trùng sa mạc),…

II.9.1.2 Nước và độ ẩm

Nước là nhân tố vô cùng quan trọng đối với mọi sinh vật. Nước chiếm 50 – 70% khối lượng cơ thể. Nước không chỉ là môi trường sống của thủy sinh vật mà còn là dung môi cho các phản ứng sinh hóa diễn ra trong tế bào của cơ thể sống. Dưới tác động của nhiệt độ, nước luôn

bốc hơi từ mọi bề mặt, kể cả các sinh vật đẳng nhiệt và biến nhiệt, tạo nên độ ẩm của không khí. Độ ẩm càng thấp, nhiệt độ càng cao, gió càng mạnh, tốc độ bốc hơi và thoát hơi nước càng lớn. Vì thế, cơ thể sinh vật luôn luôn bị mất nước nên chúng phải có cơ chế ngăn cản sự thoát hơi nước và lấy nước bổ sung từ môi trường: hút qua rễ, một phần qua thân,… đối với thực vật; uống nước hay lấy nước qua thức ăn,.. đối với động vật. Tất nhiên do nhu cầu nước khác nhau, khả năng giữ nước khác nhau,… nên các sinh vật phản ứng không giống nhau với ẩm độ khác nhau của môi trường và phân bố ở những vùng nhất định trên lục địa.

II.9.1.3 Ánh sáng

Ánh sáng cũng như mọi yếu tố vô cơ khác, vừa là yếu tố điều chỉnh vừa là nhân tố giới

hạn đối với đời sống sinh vật, đặc biệt là thực vật. Bức xạ mặt trời quyết định quá trình quang hợp của thực vật.

- Liên quan đến cường độ chiếu sáng, thực vật được chia thành 2 nhóm: Cây ưa sáng và cây ưa bóng. Cây ưa sáng tạo nên sản phẩm quang hợp cao khi điều kiện chiếu sáng tăng lên ở cường độ vừa phải. Còn cây ưa bóng thì cho sản phẩm quang hợp cao ở cường độ chiếu sáng thấp.

- Liên quan đến độ dài chiếu sáng, thực vật còn được chia thành nhóm cây ngày dài và cây ngày ngắn. Cây ngày dài là cây ra hoa kết trái cần pha sáng nhiều hơn pha tối, ngược lại, cây ngày ngắn đòi hỏi độ dài chiếu sáng khi ra hoa kết trái ngắn hơn.

- Không giống với thực vật, ánh sáng không có “giới hạn thích hợp” đối với động vật. Phần lớn động vật đều có khả năng phát triển trong tối và ngoài sáng, mặc dù tác động của các loại bức xạ ánh sáng đều có ảnh hưởng đến các quá trình trao đổi chất trong tế tào của động vật.

- Ánh sáng thay đổi theo chu kỳ ngày đêm, chu kỳ tuần trăng và chu kỳ mùa. Tính nhịp điệu của ánh sáng khắc sâu vào đời sống của sinh vật, tạo nên ở chúng một nhịp điệu sinh học chuẩn xác, được gọi là “đồng hồ sinh học”.

II.9.1.4 Muối khoáng

Muối khoáng tham gia vào thành phần cấu trúc của chất sống và các thành phần khác của cơ thể. Hiện nay, người ta đã biết khoảng 40 nguyên tố hóa học có trong thành phần chất sống. Trong đó có 15 nguyên tố đóng vai trò thiết yếu đối với mọi sinh vật. Natri và clo rất quan trọng đối với động vật. Những nguyên tố này tham gia vào thành phần cấu tạo của protein, gluxit, lipit. Trong quang hợp của thực vật và trao đổi chất của động vật nhờ các enzyme, các muối này được sử dụng cho sự tăng trưởng và phát triển với những hàm lượng khác nhau. Trong môi trường nước, muối không chỉ là nguồn thức ăn mà còn có vai trò điều hòa áp suất thẩm thấu và ion của cơ thể, duy trì sự ổn định của đời sống trong môi trường mà hàm lượng muối và ion thường xuyên biến động.

II.9.1.5 Các chất khí

Khí cacbonic chiếm một lượng nhỏ trong khí quyển, khoảng 0,03% về thể tích. Hàm lượng này trong khí quyển hiện nay là quá giới hạn đối với nhiều loài thực vật bậc cao. CO2 là loại khí quang trọng nhất trong quá trình quang hợp của thực vật.

Khí oxy tham gia vào quá trình oxy hóa hóa học và oxy hóa sinh học. Có thể nói hàm lượng oxy trong nước có vai trò quyết định thành phần loài sinh vật sống trong hệ.

Xem tất cả 201 trang.

Ngày đăng: 03/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí