chính sách đối với tôn giáo tín ngưỡng cũng như sự nghiệp bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc hiện nay. Tuy nhiên, tín ngưỡng thờ Mẫu được trình bày trong công trình này chủ yếu được nghiên cứu dưới góc độ văn hóa. Theo đó, tác giả trình bày những yếu tố cấu thành của tín ngưỡng thờ Mẫu có liên quan nhiều đến văn hóa như: điện thờ, lễ hội và nghi lễ cơ bản.
“Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc người ở Việt Nam và Châu Á” (2004) Ngô Đức Thịnh (Chủ biên). Ở đây, tác giả đã tiếp cận hiện tượng tín ngưỡng này chủ yếu dưới góc độ văn hóa và phần nào cũng chỉ ra được phương diện tín ngưỡng tôn giáo. Tác giả đưa ra những luận chứng khẳng định tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam đã trở thành Đạo Mẫu.
- Công trình “Tín ngưỡng dân gian Việt Nam” (tái bản có sửa chữa, bổ sung) (2001) của Vũ Ngọc Khánh có viết về các tín ngưỡng dân gian Việt Nam hiện nay, trong đó có cả tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng Tam phủ - Tứ phủ, nhưng không nghiên cứu sâu từng loại hình tín ngưỡng mà chỉ nêu khái quát từng loại hình tín ngưỡng dân gian.
- “Văn hóa Thánh Mẫu” của Đặng Văn Lung (2004) đã nghiên cứu sâu sắc vấn đề “Mẫu” nên đưa ra rất nhiều tư liệu về các “Mẫu”. Tuy nhiên, tác phẩm lại được viết dưới góc độ văn hóa, văn học và lịch sử mà không xét dưới góc độ tín ngưỡng và tôn giáo.
- Năm 2005, công trình “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam” do Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) cũng viết về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam, nhưng chỉ đề cập đến khái niệm thờ Mẫu, khái lược về điện thờ và nghi lễ Hầu đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu, chưa đi sâu vào nguồn gốc, vai trò của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam.
- “Tín ngưỡng thờ nữ thần vùng ven sông Hương ở Huế” (2010) của Dương Hải Vân đã xác định các đặc điểm, vai trò của tín ngưỡng thờ Nữ thần trong đời sống hiện nay, đề ra các giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị của tín ngưỡng thờ Nữ thần. Cụ thể, tác giả đi vào tìm hiểu những tiền đề hình
thành tín ngưỡng thờ Nữ thần; nhận diện, hệ thống các Nữ thần hiện diện ở vùng ven sông Hương tại Huế; trên cơ sở đó, tiến hành phân tích, đánh giá, rút ra đặc điểm của tín ngưỡng thờ Nữ thần ở vùng đất này. Đồng thời chỉ ra được những giá trị và hạn chế, đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị của nó.
- “Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ” (2013) của Nguyễn Hữu Thụ đi vào nghiên cứu những vấn đề triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Ngoài việc khái quát được những nội dung cơ bản liên quan đến tín ngưỡng thờ Mẫu, tác giả còn đi sâu vào nghiên cứu và chỉ ra những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt với việc làm rò cơ sở ra đời, những quan niệm về thế giới, con người, về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội. Từ đó, tác giả đã chỉ ra những xu hướng biến đổi trong tín ngưỡng Thờ Mẫu và bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những giá trị tích cực và khắc phục những vấn đề tồn tại của tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Về văn hóa tỉnh Hưng Yên cũng có một số công trình nghiên cứu như: Các tư liệu do Bảo tàng tỉnh biên soạn: “Lý lịch di tích đền Ghênh Văn Lâm - Hưng Yên”; “Lý lịch di tích đền Mẫu phường Quang Trung - thị xã Hưng Yên”; “Lý lịch di tích đền Thiên Hậu phường Quang Trung - thị xã Hưng Yên”; “Tư liệu Hán nôm đền Mẫu”; “Tư liệu Hán nôm đền Thiên Hậu”; Cuốn: “Di tích lịch sử - văn hoá đền Mẫu” của Hoàng Mạnh Thắng; “Di tích lịch sử - văn hóa Hưng Yên” của Phạm Trung Hiếu và “Hưng Yên vùng phù sa văn hóa” của Nguyễn Phúc Lai… Các công trình này chỉ mang tính giới thiệu chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu tín ngưỡng thờ đạo Mẫu ở Hưng Yên.
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về tín ngưỡng thờ mẫu cũng như văn hóa của tỉnh Hưng Yên, nhưng chưa có công trình đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên. Do đó, tôi muốn cụ thể hóa vấn đề trên bằng luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Có thể bạn quan tâm!
- Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên hiện nay Qua khảo cứu một số cơ sở thờ tự - 1
- Khái Quát Về Các Hình Thức Tín Ngưỡng
- Nguồn Gốc Hình Thành Tín Ngưỡng Thờ Mẫu
- Thực Trạng Tín Ngưỡng Thờ Mẫu Ở Hưng Yên Hiện Nay Qua Khảo Cứu Một Số Cơ Sở Thờ Tự
Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.
Triết học “Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên hiện nay (Qua khảo cứu một số cơ sở thờ tự)”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Trên cơ sở khảo sát thực trạng một số cơ sở thờ tự tiêu biểu, luận văn đưa ra những nhận định về sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên. Đồng thời, nêu lên giải pháp bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống, khắc phục những vấn đề tồn tại trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên nói riêng và cả nước nói chung.
Nhiệm vụ:
- Phân tích khái niệm, nguồn gốc của tín ngưỡng thờ Mẫu.
- Khảo cứu một số đền thờ Mẫu tiêu biểu và rút ra nhận xét, đánh giá về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên.
- Đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm bảo tồn, phát huy giá trị truyền thống và khắc phục những vấn đề tồn tại của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên
Phạm vi nghiên cứu: Một số cơ sở thờ tự tiêu biểu ở Hưng Yên: đền Ghênh, đền Mẫu, đền Thiên Hậu, đền Bảo Châu.
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam theo diễn tiến của thời gian có ba lớp: thờ Nữ thần; Mẫu thần và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Ở Hưng Yên, tín ngưỡng thờ Mẫu cũng phát triển theo xu hướng đó. Tuy nhiên, do điều kiện khách quan và chủ quan nên trong luận văn tác giả chỉ chọn khảo cứu các cơ sở thờ tự có đối tượng thờ cúng ở lớp nghĩa thứ hai (Mẫu thần) với bốn đền thờ tương đối tiêu biểu: đền Ghênh, đền Mẫu, đền Thiên Hậu và đền Bảo Châu.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà Nước về văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo… làm cơ sở lý luận chung cho toàn luận văn.
Phương pháp nghiên cứu: Bên cạnh phương pháp chuyên ngành: duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra,luận văn còn sử dụng các phương pháp liên ngành như: phương pháp điền dã, hệ thống, phân tích và tổng hợp, so sánh, lịch sử cụ thể… để đạt mục đích và thực hiện những nhiệm vụ mà luận văn đã đặt ra.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn đưa ra nhận xét, đánh giá về thực trạng của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên.
- Đề ra những giải pháp, kiến nghị nhằm phát huy các giá trị tích cực và khắc phục những vấn đề tồn tại của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận:
- Luận văn góp phần nhận diện tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên với thực trạng của nó.
- Luận văn giúp người đọc hiểu sâu sắc hơn về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên, từ đó nhận thức được vai trò của cá nhân trong việc góp phần vào quá trình xây dựng văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu.
Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho trường Chính trị, ban Tuyên giáo các huyện, những người làm công tác quản lý văn hóa và độc giả quan tâm đến vấn đề văn hóa tín ngưỡng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI LƯỢC VỀ TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU
1.1. Khái niệm và các hình thức tín ngưỡng
1.1.1. Khái niệm tín ngưỡng
Tín ngưỡng là khái niệm dùng để chỉ hiện tượng lịch sử thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội. Có rất nhiều cách tiếp cận khái niệm tín ngưỡng nhưng tùy thuộc vào góc độ nghiên cứu cũng như mục đích nghiên cứu.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng: Tín ngưỡng, tôn giáo là một sức mạnh thần bí, thuộc lĩnh vực “tinh thần” tồn tại vĩnh hằng, là cái chủ yếu đem lại sinh khí, sức mạnh cho con người. Đại diện cho trường phái này là Platon, Hegel…
Đối với các nhà thần học, tiêu biểu là Thomas Aquinas xem tín ngưỡng, tôn giáo là niềm tin vào cái thiêng, cái huyền bí, ở đó chứa đựng những yếu tố siêu nhiên, nó có một sức mạnh, một quyền lực to lớn có thể cứu giúp con người thoát khỏi khổ đau và có được hạnh phúc, sự bình yên.
Ở Việt Nam, khái niệm tín ngưỡng cũng được đưa ra với nhiều cách diễn đạt khác nhau:
Theo từ điển tiếng Việt thì tín ngưỡng là “niềm tin theo một tôn giáo nào đó”. Mỗi tín đồ của một tôn giáo nào đó đều có niềm tin riêng của mình. Điều 70 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định “Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều có quyền bình đẳng trước pháp luật”.
Trong Hán - Việt từ điển, Đào Duy Anh đã giải nghĩa: Tín ngưỡng là lòng ngưỡng mộ mê tín đối với một tôn giáo hay một chủ nghĩa.
Các học giả như Toan Ánh, Phan Kế Bính… Xem tín ngưỡng là tín ngưỡng dân gian với các nghi lễ thờ cúng thể hiện qua lễ hội, tập quán, phong tục truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Có ý kiến thì cho rằng nội hàm cơ bản của tín ngưỡng là “Lòng tin, sự ngưỡng vọng của con người vào một lực lượng siêu nhiên nào đó - một lực lượng siêu thực, hư ảo, vô hình” [47, tr. 6].
Nguyễn Chính coi tín ngưỡng là tâm linh, vì tín ngưỡng và tâm linh là hạt nhân của tín ngưỡng tôn giáo. Đây là niềm tin, sự trông cậy và yêu quý một thế lực siêu nhiên mà với tri thức con người và kinh nghiệm chưa đủ để giải thích và lý giải được.
Một nhà nghiên cứu khác đã viết: “Tín ngưỡng nếu hiểu theo nguyên nghĩa dịch từ chữ Croyance của tiếng Pháp, thì chỉ có nghĩa là sự tin vào một điều gì đó, và thông thường hay được dùng để chỉ một niềm tin tôn giáo (Croyance religieuse)” [62, tr. 50]. Cũng theo tác giả này thì “tín ngưỡng”, nếu xét về mặt ngữ nghĩa, chỉ là một niềm tin tôn giáo; còn những dạng thức sinh hoạt tâm linh mà chúng ta thường gọi là “tín ngưỡng”, tức là những dạng thức tôn giáo chưa đạt tới cấp độ của một tôn giáo hiểu theo nghĩa cấu thành của nó thì các nhà tôn giáo học thường dùng với thuật ngữ là “sự thờ cúng” hay “sự thờ phụng”, dịch từ chữ Culte của tiếng Pháp hay chữ Whorship của tiếng Anh.
Tín ngưỡng là một hình thái ý thức xã hội, là một nhu cầu của xã hội và “một khi những nhu cầu ấy chưa được những hình thái của ý thức xã hội hoàn toàn thỏa mãn thì đối với một số tầng lớp xã hội, tôn giáo - tín ngưỡng vẫn là nguồn gốc của giá trị, niềm an ủi, sự nâng đỡ về tâm lý…” [74, tr.12].
Trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, tại chương I, điều 3 có quy định: Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên; tưởng niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng; thờ cúng thần, thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức, xã hội [3, tr. 10].
Theo đó, tín ngưỡng có hai nghĩa rộng và hẹp. Nghĩa rộng, tín ngưỡng chỉ niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người về một lực lượng, một chủ
thuyết, nhưng thường được hiểu là niềm tin vào một lực lượng siêu nhiên có khả năng chi phối, thậm chí quyết định số phận của con người. Đó là tín ngưỡng có tính tôn giáo. Như vậy, tín ngưỡng là chỉ niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một lực lượng siêu nhiên nào đó. Nghĩa hẹp, tín ngưỡng là chỉ một niềm tin. Đó là yếu tố quan trọng nhất cấu thành của ý thức tôn giáo.
Do vậy, có thể quan niệm tín ngưỡng như sau: Tín ngưỡng là một bộ phận của ý thức xã hội, là một yếu tố thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần, là hệ quả của các quan hệ xã hội, được hình thành bởi quá trình lịch sử - văn hóa, là biểu hiện của sự biết ơn với người có công và sự thể hiện niềm tin dưới dạng tâm lý xã hội vào cái thiêng liêng thông qua hệ thống lễ nghi thờ cúng của con người và cộng đồng người trong xã hội.
Ở nước ta, khi đề cập tới vấn đề tín ngưỡng thường đồng nhất với tín ngưỡng dân gian. Tín ngưỡng dân gian và các hình thức biểu hiện phong phú trong đời sống tâm linh người Việt, là một nội dung nổi bật của tín ngưỡng Việt Nam.
Tín ngưỡng dân gian là một loại hình sinh hoạt tinh thần đã ra đời và phát triển rộng khắp trong các cộng đồng dân cư. Ngay từ khi xã hội loài người xuất hiện thì tín ngưỡng dân gian đã bắt đầu phôi thai.
Trong cuộc sống của mình, con người ở thời kỳ đầu chưa thể hiểu được các hiện tượng tự nhiên, không biết được quy luật vận động và biến đổi của tự nhiên nên họ đã cho tất cả các hiện tượng ấy đều do thần linh tạo ra. Vì vậy, họ đã thờ cúng thần linh, cầu mong sự che chở của thần linh. Hơn nữa, sự bất công, bất bình đẳng trong đời sống xã hội đã khiến nhiều người phải chịu cảnh khốn cùng, khổ đau, lo âu và sợ sệt. Trước tình cảnh ấy, họ không còn cách nào khác là cầu xin sự ban ơn, cứu rỗi và sự che chở của các lực lượng siêu nhiên, của thần linh, Thượng đế. Chính vì thế mà tín ngưỡng dân gian đã hình thành.
Khái niệm tín ngưỡng dân gian dùng để chỉ những loại hình tín ngưỡng đã xuất hiện từ lâu đời trong lịch sử người Việt như tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ thần nông nghiệp, tín ngưỡng thờ Nữ thần… Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm này.
Theo Phạm Ngọc Quang: Tín ngưỡng dân gian cũng có thể và cần được xem là một yếu tố, một bộ phận văn hóa dân gian. Từ quan niệm đó, nếu văn hóa dân gian được hiểu là loại hình văn hóa ra đời nhờ sự sáng tạo của chính nhân dân, thì tín ngưỡng dân gian cũng có thể xem là loại hình tín ngưỡng tôn giáo do chính nhân dân, trước hết là những người lao động, sáng tạo ra trên cơ sở những tri thức phản ánh sai lạc dưới dạng kinh nghiệm cảm tính từ cuộc sống thường nhật của bản thân mình [47, tr. 8].
Tín ngưỡng dân gian còn phản ánh những ước nguyện tâm linh của con người và cả cộng đồng, là niềm tin vào thần linh thông qua những nghi lễ, gắn liền với phong tục tập quán truyền thống.
Tín ngưỡng dân gian được hiểu là loại hình tín ngưỡng ra đời từ rất sớm trong lịch sử, tồn tại chủ yếu ở cộng đồng làng xã, có khả năng tự biến đổi theo hoàn cảnh bởi sự bổ sung những tri thức mang tính trực quan, đời thường của những người lao động (trước hết là nông dân) trong quá trình sinh sống, sản xuất và thường gắn liền với các hoạt động sinh hoạt văn hóa, phong tục, tập quán của cộng đồng dân cư [76, tr. 28].
Như vậy, tín ngưỡng dân gian là lòng ngưỡng mộ, tin tưởng của con người đối với các lực lượng siêu nhiên nào đấy. Người ta tin rằng, các lực lượng siêu nhiên này có năng lực ban ơn, giáng họa, có khả năng che chở cho con người.
Tín ngưỡng dân gian Việt Nam chủ yếu dựa trên lòng biết ơn và ngưỡng mộ của các thế hệ sau đối với tiền thân, tiền nhân. Tín ngưỡng dân gian khá phong phú, nó là tâm thức tôn sùng các lực lượng siêu nhiên như: