sản thì theo vụ mùa nuôi trồng, đánh bắt và chu kỳ ra khơi về; khách hàng trồng lúa, hoa màu huy động theo thời vụ thu hoạch; chú trọng huy động từ các khoản canh tác chăn nuôi phụ, các thu nhập phi nông nghiệp (nếu không thuyết phục được người nông dân gửi tiền vào ngân hàng thì một phần không nhỏ sẽ bị “tiêu dùng” khá nhanh chóng). Huy động tiền gửi tiết kiệm từ hưu trí, hội cựu chiến binh, các hội đoàn khác, các tổ chức kinh tế, hành chính sự nghiệp, nhà trường, quỹ hỗ trợ phát triển, hợp tác xã, công ty xổ số kiến thiết tỉnh, công ty điện lực, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên xổ số điện toán Việt Nam (Vietlott),... Thu hút thanh toán qua ngân hàng như thanh toán mua giống cây trồng, vật nuôi, phân bón, thuốc trừ sâu, công làm đất, máy móc thiết bị giữa doanh nghiệp và nông dân; giao dịch trả lương cho các tổ chức KTXH. Tận dụng để có thể sử dụng nguồn vốn tạm thời chưa sử dụng từ các dự án đầu tư cho phát triển NoNT của Vùng để đầu tư cho tín dụng trung dài hạn, đây là nguồn vốn rẻ và có thời gian sử dụng tương đối dài. Để tăng cường huy động vốn trung dài hạn các ngân hàng cần chú trọng mở rộng kênh huy động vốn qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp với thời hạn 02 năm, 03 năm và 05 năm, nhất là trái phiếu có mục đích phát triển KTNo công nghệ cao được đầu tư theo liên kết chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ để tăng tính hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư. Thông qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp giúp ngân hàng huy động thêm nguồn vốn trung dài hạn để tăng cường cho vay phát triển KTNo Vùng KTTĐ. Bên cạnh đó cần chú trọng triển khai các dịch vụ ngân hàng như dịch vụ thanh toán, thu chi hộ, thẻ, dịch vụ thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ, dịch vụ gửi tiền một nơi có thể rút tiền nơi khác và người nhận tiền ở nơi khác nữa.
Cơ cấu kỳ hạn huy động tiền gửi cũng là một thách thức với các chi nhánh NHTM Vùng KTTĐ, nguồn tiền gửi ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn, năm 2011 có tỷ trọng 72,64%, năm 2017 giảm còn 56,51% trong tổng số tiền gửi; tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng năm 2011 có tỷ trọng 14,32% và tăng lên trong năm 2017 là 30,01%; còn lại là tiền gửi không kỳ hạn. Do đó các chi nhánh NHTM vẫn phải sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn, trong giai đoạn 2011-2017 đã ến 69% (năm 2011), năm 2017 giảm còn 38,87% [50,51,52,53]. Do đó các NHTM cần có kế hoạch thiết thực trong huy động để có một cơ cấu vốn huy động hợp lý hơn.
Các chi nhánh ngân hàng Vùng KTTĐ cần liên kết với nhau trong huy động vốn để tránh cuộc cạnh tranh đua lãi suất huy động, dẫn đến việc người gửi rút tiền từ ngân hàng này sang gửi ngân hàng khác làm phát sinh thêm chi phí và gây biến động bất ổn nguồn vốn huy động. Theo đó các chi nhánh có thể cho vay hợp vốn đầu tư chuỗi giá trị sản phẩm công nghệ cao để nuôi dưỡng nguồn huy động; liên kết thu hút khách hàng bằng việc hoàn thiện quy trình, thủ tục, đẩy nhanh tốc độ xử lý giao dịch để duy trì dòng tiền gửi làm tăng nguồn vốn huy động. Thực hiện giải pháp tăng cường hoàn thiện năng lực huy động vốn và liên kết huy động vốn trên góp phần gia tăng nguồn vốn cho vay phát triển KTNo Vùng KTTĐ vùng ĐBSCL.
3.2.1.2. Giải pháp hoàn thiện kế hoạch thực hiện chiến lược nâng cao năng lực nguồn nhân lực thích ứng với hoạt động ngân hàng thời kỳ mới
Nhìn chung LLLĐ trong lĩnh vực ngân hàng trên địa bàn Vùng KTTĐ là khá hùng hậu. Tính đến cuối năm 2017 tổng số cán bộ nhân viên các ngân hàng trên địa bàn Vùng KTTĐ là 11.988 người, (Cần Thơ 4.200 người, An Giang 3.590 người, Kiên Giang 2.718 người và Cà Mau 1.480 người), trong đó số có trình độ đại học, cao đẳng trở lên chiếm khoảng gần 90%, còn lại khoảng trên 10% là bộ phận hành chính, tạp vụ, quản trị tài sản, quỹ và hầu hết được đào tạo nghề [50,51,52,53]. Tuy nhiên cái yếu, cái thiếu ít nhiều là nằm ở các mặt như năng lực quản trị, ứng xử, tính chuyên nghiệp và những am hiểu kiến thức về lĩnh vực cho vay. Do đó, các chi nhánh ngân hàng Vùng KTTĐ cần có kế hoạch tổ chức thực hiện phát triển nguồn nhân lực của mình thích ứng với đặc thù địa bàn hoạt động, cụ thể:
- Một. Tăng cường tự đào tạo: Nhà trường chỉ đào tạo những kiến thức, kỹ năng cơ bản và nhất là khả năng tư duy học hỏi, sáng tạo. Còn kỹ năng thực hành cụ thể thì doanh nghiệp nói chung, ngân hàng phải tự đào tạo, bồi dưỡng theo cách của mình. Theo đó, các chi nhánh NHTM cần chủ động đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, nhân viên của mình một cách thường xuyên theo những bộ tài liệu đào tạo, huấn luyện tự ngân hàng ban hành theo những chuẩn mực đòi hỏi công việc cụ thể của từng phần hành công việc, qua đó nâng cao tính chuyên nghiệp và đạo đức nhằm phát triển nguồn nhân lực thích ứng với ứng dụng công nghệ, kỹ thuật mới.
- Hai. Liên kết trong đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu: Các chi nhánh NHTM Vùng KTTĐ cần liên kết với nhau trong đào tạo theo chuyên đề như, KTNo công nghệ cao, cho vay KTNo trong môi trường biến đổi khí hậu, tín dụng xanh, cho vay chăn nuôi thủy sản công nghệ cao, cho vay chăn nuôi gà, vịt, heo công nghệ cao, cho vay trồng lúa hữu cơ, trồng lúa công nghệ cao, cho vay trồng cây ăn trái công nghệ cao, cho vay trồng hoa màu công nghệ cao… Thầy cô giảng bài là những chuyên gia lão luyện thực tế trong ngân hàng, là chuyên gia KTNo và liên quan, thậm chí là nông dân giỏi chứ không phải ai khác. Các chi nhánh NHTM kết hợp với nhau trong đào tạo, bồi dưỡng vừa giảm chi phí đào tạo, vừa chuyên sâu, vừa có điều kiện trao đổi kinh nghiệm với nhau. Hiểu người, hiểu việc, hiểu công nghệ, hiểu chi phí, hiểu công năng thiết bị, hiểu những thuận lợi, những khó khăn của khách hàng sẽ có được khả năng thực tế đề xuất cải tiến quy trình, hồ sơ cho vay, sẽ có cách thức quản lý món vay để đảm bảo chất lượng, hiệu quả món vay đó, như vậy cán bộ ngân hàng mới có thể có khả năng tư vấn sử dụng vốn vay cho khách hàng được.
Có thể bạn quan tâm!
- Nguyên Nhân Hạn Chế Tăng Cường Tín Dụng Ngân Hàng Phát Triển Kinh Tế Nông Nghiệp Vùng Kinh Tế Trọng Điểm Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long
- Quan Điểm, Định Hướng, Mục Tiêu Chủ Yếu Phát Triển Kinh Tế Nông Nghiệp Vùng Kinh Tế Trọng Điểm Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long Đến Năm 2025 Và Tầm
- Quan Điểm Tăng Cường Tín Dụng Ngân Hàng Phát Triển Nông Nghiệp Và Kinh Tế Nông Nghiệp Đồng Bằng Sông Cửu Long
- Giải Pháp Hạn Chế Rủi Ro Đối Với Tăng Cường Tín Dụng Ngân Hàng Phát Triển Kinh Tế Nông Nghiệp Vùng Kinh Tế Trọng Điểm
- Nhóm Giải Pháp Đối Với Khách Hàng Nhằm Tạo Cơ Sở Vững Chắc Để Tăng Cường Tín Dụng Ngân Hàng Phát Triển Kinh Tế Nông Nghiệp Vùng Trọng Điểm
- Thống Nhất Một Kế Hoạch Chung Thực Hiện Mang Tính Nguyên Tắc Đảm Bảo Liên Kết Phát Triển Bền Vững
Xem toàn bộ 270 trang tài liệu này.
- Ba. Tăng cường sinh hoạt chuyên môn: Cũng cần lưu ý là ngân hàng nên duy trì những sinh hoạt chuyên môn mỗi tháng một vài lần khoảng 30 phút ngày cuối tuần để cán bộ nhân viên trong tổ hay phòng ban trao đổi kinh nghiệm nội dung theo chuyên đề và cập nhật nội dung phát sinh mới, qua đó học hỏi lẫn nhau.
- Bốn. Tăng cường đào tạo kỹ năng, đáp ứng hội nhập: Một khâu quan trọng trong đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực là tăng cường đào tạo bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng công nghệ tin học và ngoại ngữ. Việc tăng cường đào tạo kỹ năng ứng dụng kỹ thuật công nghệ tin học là cần thiết cho hoạt động ngân hàng, nhất là tới đây kỹ thuật số hóa sẽ cao hơn, phổ biến hơn. Ứng dụng công nghệ tin học giúp cán bộ ngân hàng cải thiện đáng kể công việc của mình, bởi mỗi cán bộ tín dụng trên địa bàn Vùng KTTĐ bình quân phụ trách khoảng 10.000 đến 12.000 khách hàng, với địa bàn có bán kính khoảng năm đến bảy km, khối lượng hồ sơ, quản lý món vay, địa bàn sông nước, kênh rạch chằng chịt, lại thêm đặc trưng “hào phóng” quý khách của nông dân miền Tây Nam bộ quả là khó cho cán bộ tín dụng. Ngoại ngữ giúp tiếp cận các tài liệu kỹ thuật tin học, thông tin về nghiệp vụ mới, sẵn sàng tham
gia hội nhập ngân hàng ngày càng sâu rộng, nhất là các hiệp định tự do thương mại, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), tác động của công nghệ 4.0 thì ngoại ngữ tiếng Anh càng cần thiết.
- Năm. Sử dụng cộng tác viên: Một khía cạnh khác hỗ trợ cho nguồn nhân lực cho NHTM trên địa bàn Vùng KTTĐ là các ngân hàng có thể sử dụng những cán bộ tài chính, ngân hàng về hưu tham gia làm cộng tác viên, địa phương sử dụng số lao động về hưu này làm tư vấn cho các tổ vay vốn ở địa phương mình.
- Sáu. Tăng cường thêm tính chủ động của các chi nhánh NHTM trong đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân lực của mình. NHTM cần dành một phần kinh phí đào tạo, bồi dưỡng trích lại để các chi nhánh có kinh phí chủ động thực hiện.
- Bảy. Có kế hoạch sử dụng tốt nguồn nhân lực gắn với chăm lo đời sống cho cán bộ nhân viên: Gắn liền với việc đào tạo, bồi dưỡng cần có kế hoạch sử dụng tối ưu nguồn nhân lực trên cơ sở chuyên môn được đào tạo và năng lực của người lao động trong công việc, thông thạo, giỏi việc nào bố trí sử dụng vào công việc đó. Chú trọng bồi dưỡng cán bộ nòng cốt trong quy hoạch luân chuyển qua các phần hành công việc để thông thạo, am hiểu sâu sắc công việc một cách hệ thống và do vậy ưu tiên hoặc chỉ bổ nhiệm làm cán bộ quản lý những người thông thạo, am hiểu sâu sắc chuyên môn nghiệp vụ, đã có kiến thức về quản lý, có phẩm chất đạo đức tốt nhằm đáp ứng nhu cầu tăng cường TDNH phát triển KTNo Vùng KTTĐ trong môi trường mới, nhất là môi trường của công nghệ mới.
Bên cạnh việc đào tạo, bổ nhiệm cần chú trọng chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nguồn nhân lực mà trước mắt là tăng thu nhập cho cán bộ nhân viên ngân hàng ở nông thôn, nhất là các chi nhánh ngân hàng trên địa bàn Vùng KTTĐ vùng ĐBSCL như chế độ lương kinh doanh, thưởng; chế độ đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ; chi phí công tác vùng sông nước đặc thù để đảm bảo không phải dùng tiền cá nhân khi đi công tác.
Tóm lại, chất lượng nguồn nhân lực và sử dụng nguồn nhân lực có tính quyết định đối với quá trình tăng cường TDNH phát triển KTNo Vùng KTTĐ. Do vậy đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên nghiệp giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ,
vững vàng về chính trị và có phẩm chất đạo đức là một trong những điều kiện có tính chất quyết định đối với sự thành công trong hoạt động ngân hàng, đây cũng chính là yếu tố mang lại sự thành công cho ngân hàng trong tăng cường TDNH phát triển KTNo Vùng KTTĐ.
3.2.1.3. Tăng cường cho vay theo chương trình, dự án, chuỗi cơ sở hạ tầng trọng điểm phát triển kinh tế nông nghiệp công nghệ cao gắn với linh hoạt lãi suất
Để thực hiện giải pháp này cần chú trọng những vấn đề chủ yếu sau:
- Một. Tập trung vốn đầu tư theo “chuỗi cơ sở hạ tầng trọng điểm”: Tập trung nguồn vốn lớn từ nhiều nguồn bao gồm vốn ngân sách, vốn TDNH, vốn tự tích lũy, vốn xã hội hóa, vốn đầu tư nước ngoài, vốn tài trợ từ nước ngoài (chẳng hạn có thể đàm phán để ADB cho vay trực tiếp với nhà đầu tư, theo Tổng cục Thống kê đến nay ADB đã cho Việt Nam vay 15,4 tỷ USD, hỗ trợ kỹ thuật 310,6 triệu USD và viện trợ không hoàn lại 329,5 triệu USD vay từ Ngân hàng Thế giới (WB) [3], tập trung cao nguồn vốn đầu tư cho “chuỗi cơ sở hạ tầng trọng điểm” tạo điều kiện tăng cường TDNH phát triển KTNo Vùng trọng điểm. Có thể trước hết chọn “chuỗi cơ sở hạ tầng trọng điểm” bao gồm: KTNo Vùng KTTĐ, tuyến vận tải thủy gồm cảng Cái Mép – Thị Vải ở Bà Rịa – Vũng Tàu, cảng Sài Gòn nối với các tuyến đường thủy (như sông Xoài Rạp, kênh nước Mặn, sông Vàm Cỏ, kênh Chợ Gạo, sông Tiền) đến các cảng ở ĐBSCL và doanh nghiệp logistics hiện đại để đầu tư nhằm tạo nên cơ sở vật chất kỹ thuật đồng bộ. Theo Quyết định của Bộ Giao thông vận tải số 3383/QĐ-BGTVT ngày 28 tháng 10 năm 2016 phê duyệt Quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển ĐBSCL (Nhóm sáu) giai đoạn đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 [7], gồm các cảng biển thuộc 13 tỉnh, TP. thuộc ĐBSCL, đảo Phú Quốc và các đảo thuộc vùng biển Tây Nam (riêng cảng biển trên sông Soài Rạp của Long An thuộc phạm vi quy hoạch của nhóm cảng biển số năm). ĐBSCL hiện có 32 cầu bến cảng biển dài gần 2.900 m, quy mô xây dựng tiếp nhận được tàu trọng tải 20.000 DWT (trọng tải tấn), với năng lực thông qua luồng tàu 22 triệu tấn/năm, nhưng do chưa kết nối được với nhau, cơ sở hạ tầng cảng yếu kém nên hàng hóa xuất nhập khẩu của ĐBSCL hầu như vận chuyển bằng đường bộ qua TP.
HCM và Cái Mép Vũng Tàu, chi phí vận chuyển quá tốn kém đẩy giá thành hàng hóa tăng cao nên ảnh hưởng đến sức cạnh tranh và giảm hiệu quả kinh tế của ĐBSCL cũng như của Vùng KTTĐ, theo đó ảnh hưởng đến khả năng cả từ người tiếp cận lẫn người cung tăng cường TDNH phát triển KTNo Vùng KTTĐ.
Tập trung tổng lực các nguồn vốn đầu tư cho “chuỗi cơ sở hạ tầng trọng điểm” sẽ tạo nên sự đột phá cả chất và lượng về KTNo Vùng KTTĐ vùng ĐBSCL và chuỗi cơ sở hạ tầng kinh tế hoàn chỉnh, để Vùng KTTĐ vùng ĐBSCL sớm đảm đương được vai trò vùng động lực, là đầu tàu thúc đẩy các vùng khác và nền kinh tế đất nước phát triển. Nếu không sớm thực hiện đầu tư, cho vay chuỗi công trình trọng điểm thì sẽ thiếu đồng bộ, gây lãng phí và không phát triển được, sẽ rơi vào cảnh “cầu chờ đường hay đường chờ cầu” như đã từng xảy ra. Đầu tư đồng bộ chuỗi công trình trọng điểm chính là vận dụng Lý thuyết phát triển cân đối hay các “cực tăng trưởng” (A. Hirschman, F. Perrons và G. Pestane de Bernis), rằng không thể có đủ vốn để đầu tư cùng lúc cho cả nền kinh tế được, nên trước hết phải đầu tư cho cực tăng trưởng.
- Hai. TDNH tập trung cho vay KTNo công nghệ mới và sản phẩm chủ lực:
[i] Coi KTNo là một bộ phận trong chuỗi công trình đầu tư trọng điểm, theo đó sẽ tập trung TDNH của các NHTM trên địa bàn chủ yếu chỉ cho vay KTNo công nghệ mới: nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao áp dụng theo VietGap, GlobalGAP, khuyến khích theo Tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt (AseanGap), tiêu chuẩn Châu Âu, thậm chí là tiêu chuẩn quy định của từng quốc gia, từng thị trường, đây cũng chính là nội dung cơ bản của tín dụng xanh. [ii] Vận dụng Lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo vào việc xác định lợi thế so sánh của từng tỉnh trong Vùng KTTĐ và liên kết với các tiểu vùng của các tỉnh ở ĐBSCL về thủy hải sản, cây ăn trái, hoa màu, lúa gạo, từ đó tập trung mở rộng vùng nguyên liệu nông sản công nghệ mới. Theo đó TDNH và các nguồn vốn khác cần tập trung tăng cường cho vay phát triển KTNo Vùng KTTĐ theo bốn mặt hàng chủ lực sản xuất để xuất khẩu là thủy hải sản, trái cây, hoa màu và gạo. Cụ thể: Cần Thơ cần tập trung đầu tư thành trung tâm công nghiệp, thương mại - dịch vụ, giáo dục - đào tạovà khoa học - công nghệ, y tế và văn hóa của vùng ĐBSCL. Bên cạnh đó diện tích đất
lúa còn trên 80 ha với sản lượng gần 1,5 triệu tấn cần chú trọng sản xuất lúa chất lượng cao, vùng rau an toàn với diện tích gieo trồng đạt hơn 2.000 ha, vùng cây ăn trái đặc sản gắn với du lịch sinh thái quy mô 14.000 ha và nuôi cá tra theo Tiêu chuẩn trong nuôi trồng thủy sản của Hội đồng quản lý nuôi trồng thủy sản (ASC), Tiêu chuẩn Thực hành nuôi trồng thủy sản tốt nhất (BAP), VietGAP, GlobalGAP với diện tích 46,7ha [ŀ40]. An Giang chú trọng cho vay đầu tư bốn loại sản phẩm chủ lực: Lúa, cá nhất là cá tra thương phẩm có 336 ha với sản lượng hơn 98.000 tấn, trái cây với 13.000 ha chủ yếu là xoài chất lượng cao với sản lượng khoảng 90.000 tấn, rau màu, cây dược liệu [147]. Kiên Giang tập trung cho vay đầu tư phát triển lúa gạo, tôm, thủy sản các loại, hồ tiêu, khóm (dứa), chăn nuôi gia súc, gia cầm phù hợp với điều kiện sinh thái bốn vùng sản xuất là Tứ giác Long Xuyên, Tây sông Hậu, U Minh Thượng, tiểu vùng đảo và hải đảo. Sản phẩm có lợi thế của Kiên Giang là thủy hải sản gồm cá, mực, bạch tuộc (gần 40.000 tấn/năm), tôm khoảng
6.500 tấn/năm, các loại gạo khoảng 1.000.000 tấn/năm, nước mắm 310.000 lít [144]. Tập trung cho vay ở Cà Mau theo xác định sáu ngành hàng nông sản chủ lực của tỉnh: lúa chất lượng cao, keo lai, cá sặt bổi, tôm sinh thái, cua biển và chuối. Trong đó chú trọng đầu tư phát triển tôm sú và cua thương phẩm và giống cho toàn vùng ĐBSCL trên cơ sở đầu tư gần 100 tỷ đồng xây dựng trại sản xuất giống chất lượng cao của Tập đoàn Việt Úc. Ðến năm 2020, diện tích nuôi tôm thâm canh và siêu thâm canh đạt khoảng 20.000 ha, diện tích nuôi tôm quảng canh cải tiến đạt từ
120.000 ha trở lên; nhằm đạt mục tiêu tổng sản lượng thuỷ sản năm năm (2016- 2020) là 2,8 triệu tấn [148].
TDNH đầu tư KTNo theo chuỗi liên kết theo chuỗi giá trị cho một liên hiệp từ sản xuất – chế biến – tiêu thụ – chuỗi doanh nghiệp logistics hiện đại để có năng suất cao, sản phẩm sạch, giảm chi phí, giá thành thấp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường cao. Cần triển khai nhanh chóng, rõ ràng để đưa gói cho vay nông nghiệp công nghệ cao lên tới hàng ngàn tỷ đồng mà Chính phủ định hướng và các NHTM đã cam kết. Tăng cường TDNH phát triển KTNo công nghệ cao là điều kiện quan trọng để khách hàng không chỉ trả được nợ vay ngân hàng mà còn tăng cường khả năng tích lũy, tạo thêm nguồn cung cho ngân hàng tăng huy động vốn.
TDNH an toàn hơn, hiệu quả hơn có điều kiện để tăng cường TDNH phát triển KTNo Vùng KTTĐ vùng ĐBSCL.
- Ba. Mở rộng hình thức cho vay qua hợp tác xã kiểu mới: Để tăng cường TDNH phát triển KTNo Vùng KTTĐ vùng ĐBSCL, các ngân hàng trên địa bàn Vùng KTTĐ cần nghiên cứu mở rộng, ưu tiên cho vay qua đầu mối là hợp tác xã kiểu mới, nhất là hợp tác xã ứng dụng công nghệ cao. Hợp tác xã kiểu mới được thành lập trên cơ sở tự nguyện, trong đó có cả doanh nghiệp là xã viên (xu hướng sẽ trở nên phổ biến). Nội bộ hợp tác xã phải thống nhất với nhau cam kết có giá trị pháp lý về các tài sản góp vào hợp tác xã làm TSĐB vay vốn, coi đó là một trong những điều kiện để được vay vốn. Bởi các tài sản của xã viên góp vào hợp tác xã chỉ là góp “quyền sử dụng” chứ không góp quyền “sở hữu”, do vậy phải tự nguyện đồng ý làm TSĐB thì khi rủi ro xảy ra ngân hàng mới có thể xử lý TSĐB để thu hồi vốn cho ngân hàng được. Điều kiện vay vốn ngân hàng đưa ra, còn chuẩn bị các điều kiện đó là nội bộ hợp tác xã tự chuẩn bị. Cho vay khách hàng là hợp tác xã ngân hàng sẽ giảm được nhiều đầu mối giao dịch, kiểm soát được món vay ngay từ đầu với phương án sản xuất kinh doanh khả thi, mục đích vay vốn và quá trình sử dụng vốn, kiểm soát được dòng tiền, khả năng phát hiện rủi ro nhạy hơn. Tăng cường cho vay khách hàng là hợp tác xã kiểu mới là bước đột phá trong cho vay để tạo nên sự đột phá phát triển KTNo Vùng KTTĐ vùng ĐBSCL.
- Bốn. Cho vay tập trung phát triển KTNo, hạn chế tối đa cho vay dàn trải: Tăng cường TDNH phát triển KTNo Vùng KTTĐ vùng ĐBSCL là cho vay tập trung hơn, số lượng nhiều hơn, cho vay toàn diện hơn theo chuỗi giá trị, cho vay chặt chẽ hơn để hạn chế rủi ro, cho vay để tái sản xuất KTNo mở rộng theo chiều sâu. Phần sản xuất nông nghiệp còn lại chưa tổ chức sản xuất nông nghiệp công nghệ mới sẽ tìm nguồn vốn từ các kênh khác như Ngân hàng Chính sách – Xã hội, tài chính vi mô, quỹ tín dụng nhân dân, quỹ tương hỗ,… Về cơ bản tăng cường TDNH phát triển KTNo Vùng KTTĐ chỉ tập trung cho vay phát triển KTNo công nghệ mới, nên dần chấm dứt cho vay dàn trải, cho vay sản xuất nhỏ kỹ thuật lạc hậu, năng suất hiệu quả thấp, bấp bênh. Dựa theo lộ trình phát triển nông nghiệp trong quy hoạch chung của ĐBSCL, theo đó từ nay đến năm 2020 giảm khoảng