mới vay vốn lần đầu, nếu dự án khả thi thì ngân hàng có thể tạo điều kiện để việc giải ngân được nhanh chóng với những ưu đãi về lãi suất thấp hơn và vốn vay cao hơn các món vay thông thường.
DNNVV hoạt động trong tất cả các lĩnh vực, ngành nghề và mỗi ngành lại có những thế mạnh cũng như hạn chế riêng nên nhu cầu hay quan niệm của họ về vốn và chi phí vốn cũng khác nhau vì vậy khi ngân hàng mở rộng quan hệ tín dụng với các lĩnh vực mới thì nên tìm hiểu kỹ để có những nhận định, đánh giá chính xác nhằm xây dựng một biểu lãi suất cho vay phù hợp với từng đối tượng ngành nghề, có như vậy chủ trương mở rộng tín dụng của ngân hàng mới có thể thành công.
Không chỉ có ưu đãi về lãi suất vay vốn mà ngân hàng nên tăng thêm các dịch vụ không thu phí cho các DNNVV như: chuyển tiền, thanh toán bù trừ
… tạo tâm lý khách hàng luôn được hưởng thiện chí của ngân hàng, từ đó khuyến khích các DNNVV đặt quan hệ với ngân hàng lâu dài và ổn định.
3.2.1.4 Hoàn thiện điều kiện cho vay một số sản phẩm tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Đối với sản phẩm Bao thanh toán:
Bao thanh toán là sản phẩm dịch vụ kết hợp thanh toán và tín dụng. Thực hiện dịch vụ này, hiện nay các ngân hàng TMCP thường xây dựng danh mục đối tượng khách hàng (bao gồm các DNNVV) có nhu cầu và có đủ điều kiện tham gia sản phẩm dịch vụ thường xuyên và cố định danh sách. Như vậy đã xảy ra hiện tượng đối với những khách hàng ngoài danh sách, có nhu cầu và đủ điều kiện tham gia dịch vụ này lại bị ngân hàng từ chối. Vì vậy, để mở rộng sản phẩm dịch vụ này đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đặc biệt là các DNNVV và góp phần tăng thu nhập cho ngân hàng, các ngân hàng TMCP nên nghiên cứu áp dụng biện pháp:
Từng định kỳ hàng quý, ban lãnh đạo ngân hàng nên soát xét lại để bổ sung vào danh mục khách hàng có nhu cầu và đáp ứng các điều kiện theo tiêu chí của ngân hàng để bổ sung vào danh sách khách hàng.
Có thể bạn quan tâm!
- Kết Quả Khảo Sát Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa Về Tìm Hiểu Sản Phẩm Cho Vay Của Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Năm 2010.
- Kết Quả Khảo Sát Các Nguyên Nhân Chủ Yếu Làm Cho Dnnvv Không Được Ngân Hàng Tmcp Chấp Thuận Cho Vay.
- Giải Pháp Mở Rộng Tín Dụng Của Các Nhtmcp Đối Với Dnnvv Trên Địa Bàn Thành Phố Hồ Chí Minh.
- Nâng Cao Chất Lượng Nguồn Nhân Lực Tín Dụng Trong Quan Hệ Với Các Dnnvv Thông Qua Công Tác Đào Tạo, Tái Đào Tạo Và Tuyển Dụng.
- Nâng Cao Kỹ Năng Và Trình Độ Nghề Nghiệp Đối Với Nhân Viên Và Các Cấp Quản Lý Của Dnnvv.
- Đẩy Nhanh Tiến Độ Cổ Phần Hóa Các Nhtm Nhà Nước Để Tăng Tính Linh Hoạt Và Hiệu Quả Trong Hoạt Động Của Ngân Hàng.
Xem toàn bộ 217 trang tài liệu này.
Ngoài những đối tượng trong danh sách khách hàng đăng ký trước, trong từng trường hợp những khách hàng có nhu cầu đột xuất và xét thấy đủ điều kiện để cung cấp sản phẩm dịch vụ này, các ngân hàng cũng nên sẵn sàng xem xét để cung ứng dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu hai bên cùng có lợi.
Đối với sản phẩm dịch vụ này, ngân hàng TMCP không cần yêu cầu tài sản đảm bảo hay cầm cố, chỉ cần yêu cầu phía doanh nghiệp đề nghị cấp hạn mức bao thanh toán chuyển toàn bộ các giao dịch thanh toán về ngân hàng mình.
- Đối với sản phẩm cho vay tín chấp
Trong thực tế, đối tượng khách hàng là các DNNVV ít được ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng TMCP nói riêng quan tâm cung ứng sản phẩm cho vay tín chấp. Thực trạng này cũng đã gây khó khăn không nhỏ trong việc bổ sung kịp thời nhu cầu vốn tạm thời thiếu hụt cho các DNNVV, ảnh hưởng nhất định đối với kết quả sản xuất kinh doanh của loại hình doanh nghiệp này. Có thể dễ dàng nhận thấy lý do chủ yếu xuất phát từ mối lo ngại về khả năng rủi ro đối với ngân hàng TMCP khi cung cấp các khoản tín dụng cho đối tượng DNNVV. Thực ra, điều lo ngại để rồi dẫn đến việc hạn chế các khoản vay tín chấp với các DNNVV là có cơ sở, tuy nhiên nếu quá cứng nhắc thì lại không hợp lý và gây ra bất lợi cho cả ngân hàng TMCP và DNNVV.
Vì vậy, trong thời gian tới, các ngân hàng TMCP nên xem xét giải quyết cho các DNNVV vay dưới hình thức tín dụng đối với nhu cầu vốn thiếu hụt tạm thời ngắn hạn (như: trả lương công nhân viên, trả tiền bảo hiểm, nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng ….) để hỗ trợ DNNVV trang trải các khoản chi phí sản xuất kinh doanh. Các chi phí này
thường không lớn, chỉ xuất hiện trong thời gian ngắn nhưng lại hết sức cần thiết để bù đắp kịp thời nhu cầu vốn đối với DNNVV.
Khi giải quyết cho vay tín chấp, các ngân hàng TMCP cần đặc biệt quan tâm việc thẩm định hồ sơ tín dụng và chỉ giải quyết cho vay khi DNNVV đáp ứng tối thiểu các điều kiện sau đây:
Đối tượng vay bao gồm các yếu tố chi phí sản xuất kinh doanh, các khoản chi hợp lý và phải có chứng cứ rõ ràng, minh bạch.
Nguyên nhân làm nảy sinh các khoản vay là khách quan.
Doanh nghiệp phải có biện pháp, phương án khắc phục khả thi.
Doanh nghiệp phải có uy tín trong quan hệ tín dụng với các ngân hàng.
Doanh nghiệp có năng lực tốt về tài chính, về quản lý.
Doanh nghiệp đã mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng và có giao dịch thường xuyên.
Sản phẩm, dịch vụ kinh doanh của doanh nghiệp đang trong thời kỳ phát triển.
Trong thực tế, các ngân hàng thương mại cổ phần đã triễn khai cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân căn cứ vào thu nhập bình quân tháng của cá nhân đó. Vì vậy, trong thời gian tới các ngân hàng thương mại cổ phần cũng cần xem xét sản phẩm cho vay tín chấp đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặt biệt là các doanh nghiệp siêu nhỏ dựa trên lợi nhuận sau thuế bình quân tháng của doanh nghiệp đã được khai báo với cơ quan thuế và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
3.2.1.5 Tăng cường công tác tiếp thị, giới thiệu sản phẩm cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Công tác tiếp thị, giới thiệu về các sản phẩm dịch vụ là việc cần phải quan tâm đối với các doanh nghiệp nói chung và ngân hàng TMCP nói riêng. Trong xu hướng hội nhập quốc tế và sự cạnh tranh ngày càng gay gắt thì vấn
đề công tác tiếp thị, giới thiệu về các sản phẩm dịch vụ càng trở nên hết sức cần thiết và góp phần quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Chính vì lẽ đó, các ngân hàng TMCP cần tiếp tục quan tâm, xây dựng chiến lược tiếp thị, giới thiệu sản phẩm dịch vụ, đặc biệt là các sản phẩm cho vay đối với các DNNVV. Việc làm này sẽ giúp ngân hàng từng bước chiếm dần thị phần cho vay, nâng cao và củng cố vị thế của mình trên thị trường tài chính. Công tác tiếp thị, giới thiệu về các sản phẩm dịch vụ phải được quán triệt từ nhận thức đến các công việc cụ thể nhất từ cấp lãnh đạo cao cấp đến từng nhân viên trong hệ thống của ngân hàng mình, để mỗi đơn vị, mỗi cá nhân thấy được tầm quan trọng của việc làm này. Để làm được việc này, luận án xin đề xuất một số vấn đề mà ngân hàng TMCP cần thực hiện như sau:
- Tổ chức tuyển dụng, đào tạo và huấn luyện các kỹ năng cho các cán bộ chuyên phụ trách công tác tiếp thị, giới thiệu về các sản phẩm dịch vụ.
- Ngân hàng nên thành lập trung tâm tư vấn, tuyên truyền và hỗ trợ khách hàng trực thuộc chi nhánh ở các tỉnh thành nhằm hỗ trợ, tư vấn và giải đáp mọi thắc mắc cho khách hàng về các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng mình. Trong đó phải có bộ phận chuyên trách về khách hàng DNNVV.
- Định kỳ (ba tháng, sáu tháng hoặc một năm) tổ chức hội thảo giới thiệu sản phẩm dịch vụ với khách hàng, trong đó chú trọng khách hàng là DNNVV.
- Bộ phận chuyên trách công tác tiếp thị, giới thiệu về các sản phẩm dịch vụ phải thường xuyên cập nhật thông tin về các doanh nghiệp mới thành lập để thực hiện công tác tiếp thị, giới thiệu về các sản phẩm dịch vụ cho các doanh nghiệp.
- Tăng cường quảng bá hình ảnh của mình ra công chúng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo đài, truyền hình, bảng hiệu ….
- Xây dưng thương hiệu ngân hàng TMCP, vì hiện nay không ít các khách hàng trong đó có DNNVV vẫn chưa tin tưởng vào năng lực tài chính cũng như e ngại sự rủi ro khi quan hệ tín dụng với ngân hàng.
3.2.2 Giải pháp đối với DNNVV trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh
3.2.2.1 Tham gia vào các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề để
tận dụng sự hỗ trợ.
DNNVV nên tham gia vào ít nhất một hiệp hội doanh nghiệp để có được sự hỗ trợ nhất định từ phía hiệp hội, chẳng hạn như Hiệp hội các doanh nghiệp trẻ hầu như tỉnh thành nào cũng có, Hiệp hội ngành nghề. Trong trường hợp doanh nghiệp muốn xin vay vốn ngân hàng nhưng không đủ tài sản để đảm bảo khoản vay thì Hiệp hội doanh nghiệp có thể dùng uy tín của mình để bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn. Ngoài ra việc tham gia vào các hiệp hội, doanh nghiệp sẽ tận dụng được các cơ hội làm ăn giữa các doanh nghiệp trong hiệp hội, học hỏi kinh nghiệm kinh doanh, kinh nghiệm quản lý của nhau.
3.2.2.2 Tăng cường liên kết, hợp tác theo chiều dọc lẫn chiều ngang giữa các doanh nghiệp để tận dụng nguồn lực của nhau.
Hiện nay, việc hợp tác giữa doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp nhỏ vẫn chưa được các doanh nghiệp quan tâm, các doanh nghiệp lớn chưa có chính sách tín dụng (tín dụng thương mại) hợp lý hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ cùng ngành. Chính vì vậy các doanh nghiệp nhỏ và vừa cần chủ động hợp tác với các doanh nghiệp lớn cùng ngành với mình để tận dụng những ưu thế sẵn có của doanh nghiệp lớn như nguồn vốn, quan hệ các đối tác trong và ngoài nước, kinh nghiệm quản lý điều hành, …. Từ đó sẽ tăng được thương hiệu, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.
Tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa có mối quan hệ trong kinh doanh với nhau cũng cần được các doanh nghiệp quan tâm hơn
nữa. Việc liên kết này sẽ giúp cho các doanh nghiệp tận dụng được các lợi thế, các nguồn lực, các kinh nghiệm lẫn nhau để cùng nhau phát triển.
Nếu việc liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp được phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu sẽ là điều kiện thuận lợi cho các DNNVV phát huy vai trò của mình, tăng uy tín, tăng năng lực quản lý, tăng khả năng cạnh tranh từ đó có thể tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn vay từ các ngân hàng TMCP.
3.2.2.3 Chú trọng đổi mới và hiện đại hóa công nghệ để tăng năng suất lao
động và chất lượng sản phẩm
Hiện nay các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ đang sử dụng công nghệ lạc hậu, chính vì vậy chi phí sản xuất tăng làm cho giá thành sản phẩm tăng từ đó sẽ mất ưu thế trong cạnh tranh về giá, mặc khác công nghệ lạc hậu cũng làm cho năng suất sản xuất thấp, sản phẩm chưa đảm bảo chất lượng. Tuy nhiên, việc đổi mới và hiện đại hóa công nghệ hiện đại không phải dễ dàng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa vì xuất phát từ hai nguyên nhân: thứ nhất, các doanh nghiệp nhỏ và vừa không đủ vốn để đầu tư; thứ hai, các doanh nghiệp vẫn chưa thể đánh giá được tính hiệu quả của đầu tư, do đó họ không dám mạo hiểm. Mặc dù vậy, muốn hay không thì các doanh nghiệp cũng phải có những chiến lược đổi mới công nghệ hiện đại hơn để tạo ra các sản phẩm, dịch vụ có chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của người tiêu dùng. Từ đó doanh nghiệp sẽ giảm được chi phí sản xuất, giảm giá thành, tăng năng xuất lao đông và nâng cao hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vì vậy sẽ giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng của ngân hàng.
3.2.2.4 Xây dựng mạng thông tin để quảng bá hình ảnh, đồng thời cũng là kênh cung cấp thông tin cho khách hàng và ngân hàng khi muốn tìm hiểu doanh nghiệp.
Thời đại hiện nay là thời đại của công nghệ thông tin, nên việc tận dụng công nghệ thông tin trong công tác tiếp thị bán hàng, quản lý, nâng cao hình
ảnh, thương hiệu của doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Chính vì vậy các doanh nghiệp nên có website riêng để giới thiệu về doanh nghiệp mình với khách hàng, với người tìm việc …. Đồng thời đây cũng là một kênh thông tin hữu ích để các tổ chức tín dụng đặc biệt là ngân hàng tham khảo khi họ đưa ra quyết định cho vay.
3.2.2.5 Tận dụng tối đa sự hỗ trợ của các tổ chức trung gian tài chính trong quan hệ tín dụng với ngân hàng TMCP
Hiện nay có các tổ chức trung gian tài chính do nhà nước thành lập nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa như: Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa, Ngân hàng phát triển Việt Nam, Công ty tài chính thành phố Hồ Chí Minh. Các tổ chức này có chức năng hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa vay vốn ngân hàng như bảo lãnh vay vốn, hướng dẫn lập phương án, dự án kinh doanh ….
Các DNNVV cần xây dựng phương án kinh doanh khả thi phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mình, chủ động tận dụng sự trợ giúp thiết thực có hiệu quả của các tổ chức trung gian tài chính này để có thể tiếp cận được những khoản tín dụng từ các ngân hàng TMCP trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
3.3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG TMCP ĐỐI VỚI DNNVV TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.
3.3.1 Đối với các ngân hàng TMCP trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh.
3.3.1.1 Quan tâm nghiên cứu rút ngắn hơn nữa thời gian từ lúc doanh nghiệp xin vay cho đến lúc giải ngân
Mặc dù thời gian xin vay vốn của các doanh nghiệp đã được cải thiện so với trước đây, tuy nhiên vẫn còn không ít trường hợp kéo dài do những nguyên nhân mang tính chủ quan từ phía ngân hàng, nên đã làm nản lòng và
mất cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp xin vay vốn. Để rút ngăn thời gian xin vay, ngân hàng có thể thực hiện như sau:
- Hướng dẫn và cung cấp đầy đủ các mẫu biểu về hồ sơ vay vốn thông qua mạng thông tin của ngân hàng.
- Doanh nghiệp có thể gửi hồ sơ vay vốn qua mạng.
- Ngân hàng nhận hồ sơ qua mạng có thể thẩm định sơ bộ, nếu thấy đạt yêu cầu thì thông báo cho doanh nghiệp chuẩn bị những hồ sơ cần thiết để tiến hành thẩm định thực tế tại doanh nghiệp, nếu hồ sơ thực tế không có vấn đề gì thì tiến hành các thủ tục cần thiết để giải ngân cho doanh nghiệp ngay. Trường hợp hồ sơ không đạt yêu cầu thì thông báo ngay cho doanh nghiệp để doanh nghiệp tìm nguồn vốn khác.
3.3.1.2 Quản lý và thẩm định chặt chẽ các yếu tố ảnh hưởng đến tính lành mạnh trong quan hệ tín dụng với DNNVV.
Tài sản đảm bảo chưa phải là chỗ dựa an toàn cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. Trong nguyên tắc mà có thể nói là bất di bất dịch của tín dụng là tiền vay phải được bảo đảm bằng tài sản dưới hình thức thế chấp, cầm cố, bảo lãnh bên thứ ba. Tài sản bảo đảm là nguồn thu cuối cùng của ngân hàng một khi khách hàng không trả được nợ cho Ngân hàng, và đây cũng là nguồn thu không mong muốn của ngân hàng. Do vậy, không nên xem tài sản bảo đảm là sự an toàn cho ngân hàng. Ngoài ra ngân hàng cũng cần linh hoạt hơn trong việc xem xét tính pháp lý của tài sản đảm bảo như giấy tờ đất, nhà không nhất thiết phải có sổ đỏ, sổ hồng thì mới được đảm bảo mà một số trường hợp chỉ cần có hợp đồng mua bán là được (ví dụ như đất mua dự án hay nhà chung cư …)
Trong hoạt động tín dụng của ngân hàng, tài sản thế chấp thường là bất động sản như đất đai, nhà cửa. Các bất động sản thì phụ thuộc nhiều vào tình hình kinh tế xã hội, các chính sách của nhà nước, do đó có thể sẽ xảy ra những biến động lớn, những trường hợp lừa đảo hoặc có tiếp tay của cán bộ