vốn hiểu biết văn hoá, văn học dân gian phong phú đã chắp cánh cho các sáng tác của ông thêm bay bổng, lãng mạn, đậm chất miền núi. Các thủ pháp ví von, so sánh liên tưởng thường được tác giả sử dụng với mật độ lớn. Điều này thể hiện rõ sự ảnh hưởng của văn hoá dân gian trong cách viết của tác giả đồng thời tạo cho tác phẩm giầu chất thơ, phù hợp với cách phô diễn của người dân tộc thiểu số.
So sánh là thủ pháp nghệ thuật được sử dụng với tần số cao nhất trong sáng của Vi Hồng. Theo thống kê của tác giả luận văn Đặc điểm tiểu thuyết Vi Hồng, số lần sử dụng thủ pháp so sánh trong một số tiểu thuyết của Vi Hồng là:
“Mùa hoa bióoc loỏng: 676 lần/346 trang Tháng năm biết nói: 596 lần / 371 trang Người trong ống: 403 lần/ 327 trang
Đi tìm giầu sang: 323 lần/ 300 trang
Vào hang: 276 lần/314 trang” (Dẫn theo 41).
Không chỉ ở Vi Hồng mà cả Cao Duy Sơn, Triều Ân, Hlinh Niê… cũng thường xuyên sử dụng so sánh trong sáng tác của mình. Tuy nhiên, thủ pháp so sánh không phải chỉ là sở trường riêng của các tác giả dân tộc thiểu số mà có thể coi là một thủ pháp đắc dụng của các nhà văn khi viết về dân tộc và miền núi. Tuy nhiên, mỗi tác giả lại có cách sử dụng khác nhau nhằm làm nổi bật ý đồ nghệ thuật và phong cách riêng của mình.
Trong tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam so sánh thường gắn liền với ẩn dụ và triết lý. Thủ pháp này được nhà văn vận dụng rất triệt để vì nó gần gũi với ngôn ngữ, lời nói, cách diễn đạt hằng ngày của đồng bào dân tộc, đặc biệt là dân tộc Dao. Chẳng hạn:
Trong tác phẩm Trên đỉnh đèo giông bão, nhà văn đã sử dụng với một tần số rất cao các so sánh và ẩn dụ. Chính các so sánh, ẩn dụ này đã cấu thành nên hàng loạt câu văn có hình ảnh. Những câu có nhung có tuyết, chứa đựng
những từ có cạnh sắc, những từ ngữ vàng mười. Miêu tả cặp vợ chồng muộn con, tác giả viết: "Bố mẹ nó... như hai hạt thóc lép, ủ từ mùa xuân tới mùa đông vẫn không sao nảy mầm được" [24]. Hay tả người đàn bà Mông trong cảnh chết đói: "Hai bầu vú chảy thượt, trông giống như cái lưỡi lợn ôi dán hờ vào những dẻ xương sườn nhôm nhoam" [24]. Đó là những câu đóng đinh vào bộ nhớ của người đọc. Có thể nói, so sánh là cứu cánh của văn chương. Một so sánh trúng, đắt làm sáng bừng cả câu văn, có khả năng đánh gục hàng loạt phương thức biểu đạt khác.
Cũng có khi, so sánh được tác giả sử dụng trùng điệp với những hình ảnh độc đáo, tạo ấn tượng sâu trong lòng người đọc. Chẳng hạn, khi miêu tả vẻ đẹp của Pham: "Gáo nước nước này do thần rừng ban tặng sẽ làm cho da con gái ta như phấn của hoa, như hương của đất”, “Gáo nước này là nguồn sữa của thần suối ban cho, nó sẽ làm cho tóc của con gái ta đen như gỗ mun, chảy dài như dòng chảy của thần.”, “Gáo nước này là ánh trăng soi qua kẽ lá, nó sẽ làm cho mắt con ta lóng lánh như mắt nai, tinh anh như mắt chồn, trong sáng như giọt nước mắt sung sướng của thần núi mỗi khi đón ánh bình minh.”… Pham xinh đẹp như người giời. Da dẻ cô mát rượi như da rắn, trắng như vớt ra từ thùng bột gạo nếp. Đôi mắt cô lúc nào cũng lọc hết bụi bặm, cực nhọc, trong veo như sương mai. Mái tóc đen mượt thả dài tới khoeo bồng bềnh như dòng suối chảy giữa rừng thưa. Chạm tuổi mười ba các chàng trai quanh vùng đã bu lấy cô như ong bu hoa, kiến bu mật”[25, tr. 127-128].
Có thể bạn quan tâm!
- Tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam - 9
- Khắc Hoạ Nhân Vật Qua Miêu Tả Ngoại Hình
- Sử Dụng Đắc Dụng Yếu Tố Kì Ảo Để Xây Dựng Nhân Vật Phản Diện
- Tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam - 13
- Tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam - 14
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
Để khắc hoạ vẻ đẹp rực rỡ trời cho của người con gái miền sơn cước, Đoàn Hữu Nam đã sử dụng các thủ pháp nghệ thuật so sánh rất độc đáo, gây ấn tượng và mang đậm bản sắc văn hóa, gần gũi với lối diễn đạt, những tiêu chí về vẻ đẹp của người Dao. Đó là một vẻ đẹp tự nhiên, ban sơ, phóng khoáng và mạnh mẽ. Để làm toát lên vẻ đẹp đó, nhà văn đã lựa chọn sử dụng những thủ pháp phù hợp và hiệu quả. Chẳng hạn, tác giả đã sử dụng trùng điệp giới từ so sánh “như”. Từ “như” xuất hiện đến 12 lần trong một đoạn
văn miêu tả. Đối tượng so sánh rất cũng được chọn lọc rất độc đáo: như phấn của hoa, như hương của đất, như gỗ mun, như dòng chảy của thần, như mắt chồn, như giọt nước mắt sung sướng của thần núi mỗi khi đón ánh bình minh,… như người giời, như da rắn, trắng như vớt ra từ thùng bột gạo nếp, như sương mai, như dòng suối chảy giữa rừng thưa… Trong mắt bạn đọc, vẻ đẹp của Pham hiện lên rực rỡ, trong sáng như hội tụ khí thiêng đất trời, cỏ cây, hoa lá, thần sông, thần suối…
Trong tiểu thuyết của mình, Đoàn Hữu Nam đã vận dụng nhiều sản phẩm văn hóa tinh thần của dân gian, chủ yếu là văn hóa, văn học dân gian Dao – Mông, Dáy như tục ngữ, thành ngữ dân tộc Dao đỏ, … Ngôn ngữ dân gian đã đem lại sắc thái dân dã, mộc mạc nhưng cũng rất ươi mới, hấp hẫn cho các tác phẩm. Qua đó, nó diễn tả được môi trường, cuộc sống sinh hoạt còn đậm chất dân gian của vung Tây Bắc. Cách ví von, so sánh, liên tưởng cũng là một trong những thủ pháp được Đoàn Hữu Nam sử dụng với tần số cao trong các tiểu thuyết của mình. Đây cũng là một thủ pháp quen thuộc của văn học dân gian, một cách nói đặc biệt sinh động. Các thủ pháp nghệ thuật này là một thế mạnh của các nhà văn dân tộc thiểu số và nhà văn viết về đề tài miền núi, nó được chắt lọc từ bề dày văn hóa dân gian mà họ được thụ hưởng. Đoàn Hữu Nam đã vận dụng và kế thừa những nét văn hóa dân gian ấy một cách sáng tạo trong từng trang văn của mình để rồi nó trở nên sống động, hấp dẫn và mang đậm màu sắc dân gian Dao, Mông, Dáy…
Văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Nếu như ngôn ngữ tự nhiên (hay còn gọi là ngôn ngữ phi nghệ thuật) là hệ thống tín hiệu đầu tiên con người dùng để diễn đạt ý nghĩ, tình cảm được nảy sinh trong hoàn cảnh nhất định thì các tác phẩm nghệ thuật lại được cấu tạo từ hệ thống tín hiệu thứ nhất có nhiệm vụ thể hiện tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm. Các nhà văn trong quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật luôn luôn có những tìm tòi, cố gắng để làm sao cho ngôn ngữ có thể phù hợp với nội dung cũng như tư tưởng của tác phẩm. Đoàn
Hữu Nam cũng là một trong những nhà văn như vậy. Ngôn ngữ trong các tác phẩm của ông cũng mang những nét phong cách riêng, không cầu kì, xa lạ mà rất gần gũi và dễ đi vào lòng người.
3.3.2. Sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ dân gian của các dân tộc thiểu số
Ngôn ngữ ảnh hưởng của văn học dân tộc dân gian là thứ ngôn ngữ kế thừa một cách sâu sắc lời ăn tiếng nói của đồng bào các dân tộc thiểu số được kết tinh và truyền qua nhiều thế hệ. Tất nhiên sự kế thừa đó không phải là sự vay mượn một cách tuyệt đối, đơn giản, mà là một sự vận dụng có nâng cao sáng tạo. Không chỉ đối với các nhà văn dân tộc, những tác giả người Kinh đã từng gắn bó cùng đồng bào thiểu số, đặc biệt là đã từng nghiên cứu văn hóa văn học dân gian dân tộc thiểu số thì vốn hiểu biết văn hóa, văn học dân gian phong phú đó cũng chắp cánh cho những sáng tác của họ. Như vậy, tiếp thu văn học dân gian cũng là một đặc trưng quan trọng tạo nên đặc điểm riêng biệt của bộ phận văn xuôi viết về dân tộc miền núi.
Đoàn Hữu Nam là một tác giả người Kinh, nhưng với niềm say mê văn hóa dân gian ông đã tiếp cận và nghiên cứu văn hóa người dân tộc Dao, Mông, Phù Lá ở Lào Cai. Trước khi viết tiểu thuyết Trên đỉnh đèo giông bão, Thổ phỉ các kịch bản điện ảnh ông đã hoàn thành 2 công trình nghiên cứu văn hóa dân gian, đó là công trình Lễ cấp sắc của người Dao đỏ Văn Bàn – Lào Cai, và công trình Người Phù Lá ở Lùng Phình – Bắc Hà – Lào Cai. Cả hai công trình này đã được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam đánh giá cao, xếp hạng A. Ngoài ra ông còn có mấy chục bài viết giới thiệu phong tục tập quán các dân tộc Dao, Nùng, Mông, Phù Lá ở Lào Cai.
Chính vì vậy, người đọc dễ nhận thấy một trong những điểm mạnh trong tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam đó là nhà văn đã khai thác triệt để vốn văn hóa văn nghệ dân gian của các tộc người. Theo thống kê chưa đầy đủ của chúng tôi, ước tính có khoảng hơn 524 thành ngữ được sử dụng trong tiểu thuyết Thổ phỉ mà không có sự trùng lặp. Rõ ràng đây là một lượng vốn
thành ngữ, tục ngữ rất rộng và quan trọng là tác giả đã sử dụng nhuần nhuyễn, thành thạo và có sự sáng tạo nhất định.
Đoàn Hữu Nam đã biết kết hợp rất nhuần nhuyễn giữa thành ngữ, tục ngữ, triết lý dân gian và cái lý người Dao với kiến thức học trong sách vở, học ở trải nghiệm ngoài đời, đưa vào tiểu thuyết của mình nhiều câu, nhiều đoạn triết lý nhân sinh với tần suất dầy đặc. Chẳng hạn như, để chỉ sự heo hút, hẻo lánh của một vùng rừng núi, tác giả viết: “Tay vua với tới khó khăn, ngựa quan đi qua chẳng kịp dừng”. Đề cập đến phong tục tập quán của mỗi vùng đất, tộc người, tác giả viết: “Ở nơi nào có cách thắp hương của nơi ấy”. Chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều những thành ngữ, tục ngữ được đề cập đến nhằm thể hiện nếp sống, nếp nghĩ của người vùng cao. Ví dụ:
- “Một người bắc cầu trăm người qua, một người sao sách trăm người xem”.
- “Lửa nóng tro nóng, lửa lạnh tro lạnh”
- “Muôn lời nói ra đều thuận tai, muôn vật làm ra đều thuận mắt”(Thổ phỉ)
Một trong vài thế mạnh của nhà văn Đoàn Hữu Nam là khai thác vốn văn hóa văn nghệ dân gian của các tộc người. Trong lời trần thuật, các thành ngữ thường xuất hiện khá nhiều. Nó thể hiện kinh nghiệm sống của đồng bào dân tộc thiểu số. Chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều những thành ngữ kiểu như:
"Nước lên cá ăn kiến, nước xuống cá làm mồi cho kiến", "Được lòng nỏ, mất lòng sóc",
"Rễ cây ngắn, rễ người dài"…. (Trên đỉnh đèo giông bão) “Bấc thấm đến đâu, dầu ngấm đến đó”
“Ong độc sợ sừng trâu” “Khỉ già biết cành cây khô”.
Không chỉ sử dụng nguyên gốc các thành ngữ của các dân tộc thiểu số Dao, Mông, Tày… Đoàn Hữu Nam còn tiếp thu thành ngữ một cách sáng tạo và chuyển hoá chúng thành các vế câu mang tính ẩn dụ. Có thể liệt kê hàng
loạt những trường hợp này:
"Quạ già khôn hay đại bàng non khôn", "Con cua chết trước con ếch",
"Cây muốn lặng, gió chẳng dừng"... (Trên đỉnh đèo giông bão) “Thân phận người đàn bà khốn khổ vùi tro bếp nhà người”
“Ăn cơm quên ruộng, ăn cá quên sông, đẵn cây xong quên rìu”…vv. “núi giữ chân người, người giữ chân núi
“Hà Bá mong mùa nước lũ để lấp cái dạ dày; hổ báo mong rừng động để khỏi phải khổ sở rình mồi”
“Rồng thêm vây, hổ thêm vuốt” …. (Thổ phỉ).
Tác giả còn sử dụng nhiều câu đó dân gian cho thấy sự tiếp thu kho tàng truyền thống hết sức phong phú. Ví dụ: “… Ngày xửa, ngày xưa, khi ấy cả vùng này như cái đĩa khổng lồ đơm đầy hoa thơm, quả ngọt. Vạn vật bám vào dòng nước từ dãy núi Phăng chắt ra để sinh sôi, nảy nở. Cây cối biết nhường nhau để đón mưa, đón nắng. Chim, thú biết cúi mặt chào người. Người già bảo con cháu: "Sống đất nuôi, chết đất phủ". Con trai bảo nhau: "Cây tựa cây mới thành rừng". Con gái đố nhau: "Thác cái chêm, đổi cái nhà, lấy cây tre, bắc cái cầu. Nghìn binh, vạn mã xuống ùn ùn" (Cầm cái chày, nghiêng cái cối. Cầm cái sàng, gạo lọt xuống nia). Trẻ con vừa nhảy lò cò vừa đố nhau: "Cái gì sinh ra không biết già?" (Mặt trời), "Cái gì già rồi không biết chết?" (Đá), "Cái gì đếm được các đầu đá?" (Mưa rơi)...” [24, tr. 35]
Ngoài thành ngữ, tục ngữ, câu đố, tác giả còn lồng truyền thuyết vào cốt truyện như truyền thuyết núi Rồng, núi Chúa trong tiểu thuyết Trên đỉnh đèo giông bão và đưa dân ca Giáy vào những trang miêu tả lễ hội. Ví dụ như: “Xưa nay hổ cậy thần rừng/ Thần rừng cậy hổ cho lừng tiếng thiêng/ Gặp thời thần thánh chung chiêng/ Oai danh ông hổ liêng biêng cuối giời” (Thổ phỉ).
Vận dụng văn hoá, văn học dân gian là việc làm mang tính truyền thống của văn xuôi miền núi, như truyền thuyết về cô tóc thơm trong Mường Giơn (Tô Hoài), truyền thuyết về lưỡi gươm ông Tú ở Đất nước đứng lên (Nguyên
Ngọc), truyện thơ Sa Dạ, Sa Rồng trong Xứ lạ mường trên (Hoàng Hạc) và vô số thành ngữ, tục ngữ Tày trong các tiểu thuyết của Vi Hồng... Việc cắm sâu vào cội nguồn dân tộc giúp cho tác phẩm có thêm sức nặng tư tưởng, thêm chất trữ tình và đậm đà thêm bản sắc. Tuy nhiên, nếu những chất liệu ấy không được chuyển hoá thành máu thịt của tác phẩm mà được cài đặt như một thứ đồ trang sức, phô trương chắc chắn sẽ tạo ra những hiệu ứng phi thẩm mĩ.
3.3.3. Lời văn đậm tính triết lý, lãng mạn, bay bổng
Sáng tác tiểu thuyết là công việc nặng nhọc đối với nhà văn. Một nhà văn đích thực không chỉ vững tay nghề, viết biến hóa, làm chủ được ngòi bút mà còn phải là một người giàu trí tưởng tượng. Nhà văn Đoàn Hữu Nam là một người giàu tưởng tượng và có khả năng hư cấu nghệ thuật khá cao, trong khi vẫn giữ được cảm xúc chân thực dào dạt chảy cùng ngòi bút.
Đọc tiểu thuyết Thổ phỉ, chúng ta có thể bắt gặp khá nhiều tầng nghĩa, giọng điệu triết luận của nhà văn Đoàn Hữu Nam. Anh kết hợp rất nhuần nhuyễn giữa triết lý dân gian và cái lý người Dao với kiến thức học trong sách vở, học ở trải nghiệm ngoài đời, đưa vào tác phẩm nhiều câu, nhiều đoạn triết lý nhân sinh với tần suất dầy đặc: “Bấc thấm đến đầu, dầu ngấm đến đó”, “Ong độc sợ sừng trâu”. “Khỉ già biết cành cây khô”. Anh triết lý về sự đói nghèo, về kiếp người, về thân phận người phụ nữ trong nhà người Dao dưới chế độ cũ thật đau thương nhưng chính xác: “Thân phận người đàn bà khốn khổ vùi tro bếp nhà người”. Hay nói đến sự quên ơn của những kẻ bạc bẽo, nhà văn đã mượn những hình ảnh thật tinh tế, gần gũi vời đời sống hàng ngày của đồng bào để diễn tả, chẳng hạn như:“Ăn cơm quên ruộng, ăn cá quên sông, đẵn cây xong quên rìu”…vv.
Triết lý không chỉ được thể hiện qua việc sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ để đúc kết kinh nghiệm sống của người vùng núi mà còn được thể hiện qua suy nghĩ, tâm trạng của các nhân vật. Đọc tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam chúng ta bắt gặp không ít những câu triết lý được gửi gắm qua qua quan niệm
sống của người dân: “Lý của người Dao nhìn gì, làm gì cũng phải rõ ràng” [25, tr.105] và “Người miền núi thô vụng, thật thà, cả tin song tinh tế không kém bất cứ người dân vùng nào đâu” [25, tr.214]. Tác giả như thấu hiểu lối sống của đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là người Dao. Cụ giáo Choong - vị đại diện tinh thần của người Dao – cũng thể hiện rõ tính triết lý trong lời răn dạy con: “Con người phải biết lấy phận mình, ở cành này với sang cành khác không gẫy cành cũng rơi xuống đất” [25, tr.163].
Nếu như trong tiểu thuyết Tình rừng, Dốc người và một số tập truyện vừa truyện ngắn trước kia, Đoàn Hữu Nam lấy giọng kể, tả về các nhân vật, các sự kiện đời sống là chủ đạo thì đến tiểu thuyết Trên đỉnh đèo giông bão, đặc biệt là Thổ phỉ anh đã có nhiều suy tư, nghiền ngẫm các hiện tượng ấy bằng cái nhìn day dứt, dằn vặt, trăn trở. Anh đã vượt qua được sự dễ dãi, mòn nhẵn thông thường luôn là lực vô hình cản trở ngòi bút nhà văn để sáng tạo ra những trường đoạn văn phiêu bồng, cất cánh. Cùng với chất triết lý, lời văn tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam còn thể hiện rõ chất lãng mạn, bay bổng.
Nhận xét về vấn đề này, trong cuộc Hội thảo về tiểu thuyết Thổ phỉ, nhà văn Trung Trung Đỉnh cho rằng: “Nhiều đoạn trong Thổ phỉ được viết một cách thăng hoa, bay bổng. Các trang văn đó ra đời qua sự chiêm nghiệm dài lâu từ đời sống thực của đồng bào thể hiện bởi tinh thần nghệ sĩ trong anh. Đó là điều đáng quý nhất. Nó không giả vờ mà rất thực. Có thể gọi đó là huyền ảo núi rừng dân tộc Việt Nam cũng được”.
Trong tiểu thuyết Thổ phỉ, có nhiều đoạn văn khiến người đọc thoả sức tưởng tượng. Những đoạn tả về mùa động dục của hổ, của cầm thú trong rừng, người đọc có cảm giác như ngửi được mùi vị. Những đoạn văn tả về thác nước, trăng vàng, rừng xanh non với các cặp trai gái yêu nhau, người đọc cứ ngỡ đang đẫm mình vào không gian huyền diệu run rẩy, nóng bỏng mà quên mình là người đọc. Những đoạn miêu thuật cảnh bọn thổ phỉ giết người
đẫm máu, người đọc rùng sợ hãi, và sợ luôn cả chiến tranh. Hoặc đoạn văn