Tần Số Xuất Hiện Thành Ngữ, Tục Ngữ Trong Tiểu Thuyết Th Ời Kỳ Đổi Mới Của Ma Văn Kháng.


phong cách ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày vô cùng phong phú và đa dạng, hệ thống ngôn ngữ của Ma Văn Kháng mang một sắc thái riêng.

Mỗi khi lật những trang văn của Ma Văn Kháng ta dễ nhận thấy một điều, các nhân vật của ông từ già đến trẻ, từ những người thị dân bình thường đến các bậc trí thức đều có khả năng sử dụng ngôn ngữ dân gian một cách nhuần nhuyễn và điêu luyện theo cách riêng của mình. Chính điều đó làm cho hiệu quả biểu đạt của nó được phát huy một cách tối đa, tính chất đa nghĩa của ngôn ngữ tiếng Việt càng được thể hiện rõ rệt, và nhất là tính cách nhân vật được bộc lộ.

Để miêu tả cuộc sống một cách chân thực nhất trong tác phẩm của mình, Ma Văn Kháng cũng đã khai thác tối đa kho tàng thành ngữ, tục ngữ của nhân dân. Đây vốn là thứ ngôn ngữ suồng sã, thô nhám nhưng rất đỗi gần gũi thân thiết đối với cuộc sống sinh hoạt hàng ngày mà vẫn tươi rói sự sống.

Bước đầu khảo sát, thống kê số lượt sử dụng thành ngữ, tục ngữ dân gian trong một số tiểu thuyết tiêu biểu của Ma Văn Kháng và so sánh với một số nhà văn khác, chúng tôi nhận thấy (xem bảng 3.1):


Tác phẩm


Tác giả


Số trang

Thành ngữ, tục ngữ

Tỷ lệ

tính trê n trang

văn bản

Số

lượng

Số lần

Mùa lá rụng trong vườn

Ma Văn Kháng

359

68

72

0,20

Đán cướ i không có giấy giá thú

Ma Văn Kháng

397

165

179

0,45

Côi cút giữa cảnh đời

Ma Văn Kháng

278

129

135

0,48

Quê nhà

Tô Hoài

290

111

131

0,45

Thời xa vắng

Lê Lựu

405

20

22

0,05

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

Nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới - 12

Bảng 3.1. Tần số xuất hiện thành ngữ, tục ngữ trong tiểu thuyết th ời kỳ Đổi mới của Ma Văn Kháng.

Nhìn vào bảng thống kê, chúng tôi thấy, tần số hệ thống thành ngữ, tục ngữ và cách nói dân gian trong sáng tác của Ma Văn Kháng xuất hiện tương đối dày đặc và


tăng lên không ngừng. So với nhà văn Tô Hoài tần số ấy chưa phải là cao, nhưng so với Lê Lựu thì tần số xuất hiện hệ thống thành ngữ, tục ngữ mà Ma Văn Kháng sử dụng nổi trội hơn hẳn. Trong khi Lê Lựu cứ 18,1 trang văn bản lại xuất hiện một thành ngữ, tục ngữ; thì Ma Văn Kháng trung bình cứ khoảng 2,6 trang văn bản ta lại thấy xuất hiện một thành ngữ, tục ngữ. Tuy nhiên, vấn đề chúng tôi quan tâm chưa hẳn là tần số xuất hiện và sự gia tăng không ngừng của thành ngữ, tục ngữ. Điều đáng chú ý là không những tần số xuất hiện thành ngữ, tục ngữ khá đậm đặc mà những thành ngữ, tục ngữ dưới ngòi bút của Ma Văn Kháng mang một giá trị sử dụng cao. Nó luô n là phương tiện đắc địa để nhà văn phản ánh hiện thực cuộc sống muôn màu muôn vẻ và sự đa dạng trong tính cách con người.

Cũng như Tô Hoài, Ma Văn Kháng sử dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao và lối nói dân gian để góp phần nâng cao chất lượng nghệ thuật cho tác phẩm, đồng thời phản ánh bức tranh hiện thực muôn màu muôn vẻ của cuộc sống sinh hoạt, tạo ngữ cảnh cho câu chuyện, cũng như để khắc hoạ cá tính nhân vật, nhưng cách sử dụng của hai nhà văn lại khác nhau. Nếu Tô Hoài sử dụng một cách nhuần nhuyễn và linh hoạt c ác thành ngữ, tục ngữ để miêu tả cuộc sống lam lũ, vất vả và số phận của những người dân lao động thủ công nghèo qua "những thành ngữ có trong tiếng phổ thông đến những thành ngữ chỉ dùng trong tiếng nói hàng ngày ở vùng Nghĩa Đô, từ đó "tạo màu sắc bình dị, gần gũi trên từng trang sách của nhà văn" [62,160], thì Ma Văn Kháng với cái nhìn hiện thực ở tầng sâu nhân bản, ông đã sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ để phản ánh nhiều phương diện với những gam màu tối sáng khác nhau của con người và cuộc sống. Qua đó, người đọc thấy được hiện thực nhức nhối trong cuộc sống đầy biến động của cơ chế thị trường hôm nay.

Trong Đám cưới không có giấy giá thú, chúng tôi thấy có 179 lượt thành ngữ, tục ngữ được sử dụng. Tuy nhiên mức độ sử dụng ấy lại không hề gây cảm giác khó chịu cho người đọc, ngược lại nó còn tạo nên sự cuốn hút hấp dẫn, lôi cuốn riêng. Trên nhiều trang văn của mình, Ma Văn Kháng đã đưa hệ thống thành ngữ, tục ngữ vào lời ăn tiếng nói c ủa từng nhân vật để họ có thể tự giãi bày tình c ảm và tâm tư tình c ảm của mình. Bộc lộ tâm trạng xót xa cao độ của Tự trước hiện thực khắc


nghiệt của cuộc sống với khát vọng anh hằng đeo đuổi tác giả viết: "Chao ôi! vào cái thời buổi gạo châu củi quế, người người đang lao đầu quyết tử vào cuộc giành giật danh lợi hỗn mang, ở cái gác xép chật chội… mà lại còn cao đàm khoát luận về cái sâu xa, thâm thuý của văn chương lại còn say sưa, mày mò tìm kiếm cái gọi là ngữ pháp nghệ thuật…" [21,7]. Chỉ trong một câu văn mà tác giả dùng tới hai thành ngữ: gạo châu củi quế cao đàm khoát luận. Thành ngữ gạo châu củi quế nói về giá cả đắt đỏ qua đó thể hiện sự cảm nhận sâu sắc của Tự về cuộc sống thiếu thốn của gia đình; thành ngữ cao đàm khoát luận để chỉ tâm hồn người thưởng thức vẻ đẹp văn chương trong những giây phút thăng hoa.

Sử dụng thành ngữ, tục ngữ này nhà văn tiếp tục để Tự thể hiện suy nghĩ và hoàn cảnh nghiệt ngã của bản thân: "Nhưng cái gì có thể cưỡng lại sự thắng thúc ghê gớm của miếng cơm manh áo lúc này? Giá cả tăng như nhảy cóc. Đồng tiền cháy vèo trên lòng bàn tay. Chẳng ngày nào Xuyến không lời ra tiếng vào". Đứng trước muôn ngả của dòng đời xuôi ngược, trước sự phát triển phong phú phức tạp của đời sống xã hội, con người phải đối mặt với biết bao nỗi lo lắng đời thường, nỗi lo ấy, lúc nào cũng thường trực trong cuộc sống c ủa họ. Trước sức ép của cuộc sống áo cơm trước giá cả ngày một tăng cao "tăng như nhảy cóc" Tự thấy rõ sự vất vả trong cuộc mưu sinh. Chính vì điều này, mà Xuyến - vợ Tự suốt ngày cằn nhằn, chì chiết, đay nghiến "lời ra tiếng vào" với Tự. Nhưng không vì thế mà anh tỏ ra bất bình, rồi buông ra những lời lẽ thô lỗ, tục tằn. Mà trái lại, anh vẫn đức độ, vẫn nhẹ nhàng, hiểu và cảm thông những khó khăn của vợ. Có thể nói, bằng việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ phù hợp với văn cảnh nhà văn đã phản ánh bức tranh hiện thực của cuộc sống một cách nhẹ nhàng mà sâu sắc đồng thời qua đó tính cách của nhân vật được bộc lộ rõ.

Không chỉ sử dụng thành ngữ, tục ngữ để phản ánh cuộc sống ngày một khó khăn vật chất, không chỉ sử dụng thành ngữ để bộc lộ tâm trạng và sự bất lực của nhân vật hiện thực, tác giả còn dùng ngôn ngữ này đề khắc hoạ tính cách nhân vật một cách hiệu quả. Có thể nói trong quá trình xây dựng nhân vật, nhà văn đã sử dụng nó như một trong những thủ pháp đắc địa nhất.


(Mùa lá rụng trong vườn) vốn là một phụ nữ thành thị, xuất thân từ một cô gái thôn quê nghèo, ít học nhưng lại sắc sảo và nhanh nhạy bén với thời cuộc. Người phụ nữ ấy "cứ như từ cuộc đời bước vào trang s ách và từ trong trang s ách bước ra thế giới". Để khắc ho ạ nhân vật này, nhà văn đã cho nhân vật sử dụng khá đậm đặc thành ngữ, tục ngữ và lời nói thông tục. Hơn nữa với mỗi đối tượng, Lý lại sử dụng thành ngữ, tục ngữ một cách linh hoạt và uyển chuyển. Khi nói chuyện với chồng - thiếu tá Đô ng trong ngày tết, Lý xới xới, bốp chát: "Quý hoá chưa kìa! Ngủ như hổ ngủ... Năm hết tết đến rồi không dậy nhúc nhắc chân tay một tý, còn định nằm ăn vạ đến bao giờ? Rõ thật hết ngày dài lại đến đêm thâu" [22,17]. Khi nói chuyện giá cả chợ búa với Phượng, ngôn ngữ chợ búa cũng được chị sử dụng rất tự nhiên: "Năm ngàn rưỡi, giá hữu nghị đấy. Nó hò một câu, mình hét một tiếng"; "Cô gói bánh hộ lão cột nhà cháy đấy à"; "Thế là đi đời nhà ma cả bộ comple giờ phải đến ngàn bạc. Ông Đô ng thì cứ như ngậm hột thị"; "Rõ đau đẻ còn chờ sáng trăng"; Chị em chúng tôi đang bận, sẽ quyết định ăn chơi xả láng, ông có chịu không? Còn cười, cười cái lão rậm râu sâu mắt"…

Còn khi cong cớn với Luận thì ngô n ngữ của Lý đúng là ngôn ngữ của kẻ vô học, vô văn hoá: "Vểnh tai mà nghe cho rõ nhé. Tiên trách kỷ, hậu trách nhân. Anh có biết rằng, con vợ anh nó có được chỗ chui ra chui vào là nhờ cái con quỷ sa tăng nào không? Và vợ anh cùng với anh đã ăn cháo đá bát như thế nào không? Định mồi chài ai?... Đừng nên có cơm lại muốn ăn quà nhé! Đừng khỏi vòng cong đuôi nhé!… Bỏ tao ra!... Đồ chó ghẻ có mỡ đằng đuôi"… [22,255-256].

Có thể thấy, ngôn ngữ của Lý không phải là thứ ngôn ngữ quan phương mà là thứ ngôn ngữ phồn tạp, thô ráp trong cuộc sống sinh ho ạt đời thường vô cùng sặc sỡ sắc màu và đầy góc cạnh. Với cách sử dụng ngôn ngữ này, tính cách của Lý đã được bộc lộ rõ nét.

Với kẻ ít học, thực dụng trắng trợn bỉ bai chồ ng - nhà giáo nghèo, như Xuyến trong Đám cưới không có giấy giá thú nhà văn tiếp tục sử dụng thành ngữ, tục ngữ để khắc ho ạ nhân vật và bộc lộ bản chất của nhân vật. Hãy nghe Xuyến đay nghiến, mỉa mai chồng: "Người ta khôn cậy khéo nhờ. Mình thì cứt nát còn đòi có chóp.


Đói dài đói rạc lại còn xe với pháo" [21,78]. Có thể thấy Ma Văn Kháng đã rất chủ động lựa chọn thành ngữ, tục ngữ phù hợp cho từng nhân vật của mình. Để bộc lộ sự vô học, kém hiểu biết của Xuyến tác giả dùng thành ngữ cứt nát còn đòi có chóp, ngo ài ra, thông qua những thành ngữ, tục ngữ, Xuyến đã hiện lên một cách đầy đủ và rõ ràng là một con người xấu xa, thô lỗ. Chị chê bai, dè bỉu, khinh miệt, coi thường chồng, thành ngữ khôn cậy khéo nhờ, đói dài đói rạc một phần nào đó đã thể hiện được tính cách c ủa cô ta.

Khác với Xuyến, nhân vật bà Xuất trong tác phẩm Quê nhà của nhà văn Tô Hoài cũng vào tình cảnh éo le - chồ ng, con chết trận, một mình đứng mũi chịu sào đảm đang công việc nuôi con, nuôi cháu, tiếp tục sự nghiệp của chồng con để lại. Bà không khỏi lo lắng, trăn trở. Dưới đây là lời tâm sự của bà với ông Tư: "Tôi bây giờ ngổn ngang quá ông ạ. Bố con ông nó thế là đi việc nước cả rồi. Trong nhà chỉ còn lại hai mẹ con với thím nó và một lũ cháu dại, có nhớn chưa có khôn. Nhà thì vừa việc ruộng vườn, vừa canh cửi, đằng nào cũng phải có người chạy chợ, người hồ cháo. Việc trong nhà không như việc đồng còn mùa bận mùa nhàn, lúc nào cũng tối mặt tối ngày. Từ khi thằng cả nó đi việc nước với bố nó, khung cửi đành để trống đấy. Buổi đực buổi cái, nhà đã neo lại càng neo. Mà trời còn tao loạn thế này…". Đoạn văn có 8 câu mà tác giả sử dụng 5 thành ngữ. Mỗi thành ngữ, thể hiện nỗi lo lắng, trăn trở của bà Xuất trước bao công việc ngổn ngang bộn bề, qua đó độc giả thấy được bản chất nhân hậu của người phụ nữ Việt Nam.

Trở lại với nhân vật Xuyến trong Đám cưới không có giấy giá thú, trước cuộc sống khó khăn chị đã khô ng tránh khỏi sự cám dỗ của vật chất. Chính vì thế mà chị đã phá tan mái ấm gia đình. Đã thế khi phản bội chồng, chị còn la ối, quát tháo và nói những lời lẽ thật thô thiển, trắng trợn của kẻ vô học, vô giáo dục. "Im đi để ông vu vạ tôi, hả! Sao cái thân tôi khốn khổ khốn nạn thế này! Một thân tôi lo toan gánh vác. Một thân tôi đầu tắt mặt tối để cái quân ăn cháo đá bát nó chửi rủa, móc máy tha hồ. Này, tôi truyền đời báo danh cho ông biết từ nay ông đi đâu thì cứ đi! Của anh anh mang. Của nàng nàng xách. Ông đừng bén mảng đến cái nhà này nữa" [21, 296]. Mỗi thành ngữ trong đoạn văn đó đều rất quen thuộc, nhưng chỉ thích hợp cho


những loại người xỉa xói, móc máy, đanh đá, chua ngoa. Từng lời Xuyến nói ra như muốn nuốt chửng Tự, cô ta đ ay nghiến, chì chiết chồng không tiếc lời. Từ những lời nói ấy Xuyến hiện nguyên hình là một người đàn bà thực dụng, lăng loàn vô lối. Đó quả thật là một sự tha hoá rất đáng buồn.

Trong Chó Bi - đời lưu lạc ở một cuộc đối thoại với ông Mệnh, chỉ một câu đối đáp phóng viên Đạt đã vận dụng triệt để vai trò của thành ngữ, tục ngữ: "Tôi thì tôi lại quý chó ta. Nó là con chó đẹp, con chó khôn, con chó hiếm, con chó thảo . Con chó đã đi vào đời sống người mình. In dấu vào cả văn chương trở thành ẩn dụ, kinh nghiệm của bao kinh nghiệm nhân sinh: Chó đâu chó có sủa không. Chẳng thằng ăn trộm cũng ông ăn mày. Chó chê nhà giột ra nằm bụi tre. Chó quê đòi ăn mắm mực. Chó ngáp phải ruồi. Chó cậy gần nhà. Chó cùng cắn dậu. Chó già giữ xương, hoặc Làm người thì khó, làm chó thì dễ. Chó dại theo mùa, người dại quanh năm. Chó gặm xương chó!" [24,384]. Cách ứng đối như vậy của phóng viên Đạt đã giúp anh tạo ra một trò chơi tâm lý, một bài toán thử để dò la tính cách và phẩm giá của người đối diện một cách khéo léo tế nhị.

Có thể thấy Ma Văn Kháng đã rất thành công trong việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ một c ách khéo léo, linh hoạt, luôn phù hợp với từng ngữ cảnh, với từng nhân vật, góp phần khắc hoạ tính cách, bản chất nhân vật.

Đến với tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời, nhân vật gây ấn tượng và giàu sức sống nhất là nhân vật bà Lãng. Nhân vật bà Lãng có sức sống mạnh mẽ trong lòng người đọc ngoài phẩm chất kiên cường, lòng nhân hậu bao dung của bà còn là cách nói sắc sảo với việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ đậm đặc. Được ví như một bà tiên trong truyện cổ tích, nhân vật này được thể hiện trên từng trang văn của Ma Văn Kháng qua một hệ thống ngôn ngữ rất đỗi quen thuộc, gần gũi và mang đậm màu sắc đời thường mà không kém phần sắc sảo của một con người thấu hiểu lẽ đời. Khi đối thoại với ông Luông - Chủ tịch phường một con người nham hiểm, tàn nhẫn, bà cụ đã thể hiện được một cách khéo léo dứt khoát khiến cho kẻ chủ động câu chuyện, cuối cùng lại là người rơi vào cảnh thất bại với ý định xấu xa của hắn: "Ông Luông ạ! Phải duyên thì dính như keo. Trái duyên đểnh đoảng như kèo đục vênh; ông ạ…


không thì thiên hạ người ta bảo là thói đời giậu đổ bìm leo". Hoặc "Trình ông trẻ thì bé dại ngây thơ, già thì lẫn lộn biết ngày nào khôn. Ông nói vậy thì bây giờ tôi mới biết. Tôi cũng không ngờ thằng gián điệp nó biết cái câu tốt lễ dễ van…". Với ngôn ngữ ấy, bà đã làm cho ông Chủ tịch phường, người có kinh nghiệm và thâm niên trong ngành ngoại giao phải lúng túng. Khi đối đáp với Hứng - tay chân của ông Luông, kẻ rắp tâm đến chiếm nhà của bà, ngôn ngữ ấy lại thể hiện được cái sắc sảo, đáo để nhưng vẫn rất thấu tình hợp lý: "… Nhưng mà dò sông, dò biển dò nguồn. Biết sao được bụng lái buôn mà dò; Thì đêm rủ rỉ, rù rì, tiếng nặng bằng bấc, tiếng chì bằng bông; Nghĩa là chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi!...".

Sử dụng thành ngữ, tục ngữ, một cách khéo léo tự nhiên, bà Lãng đã ngang nhiên chỉ mặt đặt tên mọi thủ đoạn hèn hạ và bất lương của những kẻ chức quyền mà lòng lang dạ thú.

Với cái nhìn đa diện, đa chiều sâu sắc, bằng việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ một cách điêu luyện để phản ánh hiện thực và xây dựng hình tượng nhân vật, Ma Văn Kháng đã đưa sự sống vào văn chương, thể hiện mối quan hệ máu thịt giữa văn chương với cuộc đời. Điều đó khiến cho người đọc có cảm giác Ma Văn Kháng không chỉ gần gũi người dân trong ngôn ngữ mà gần gũi họ trong cả nếp nghĩ và đời sống tâm tư tình cảm.

Không những Ma Văn Kháng sử dụng đậm đặc thành ngữ, tục ngữ trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới, mà nhà văn còn sử dụng rất hiệu quả từ ngữ thông tục trong sáng tác của mình. Rất dễ dàng nhận thấy trong tiểu thuyết của nhà văn một hệ thống từ ngữ thông tục xuất hiện, nó tạo nên giá trị mới trong tác phẩm của ông.

Trong cuốn 99 phương tiện và biện pháp tu từ Tiếng Việt, Giáo sư Đinh Trọ ng Lạc quan niệm rằng: "Từ thô ng tục là những từ chỉ được dùng trong lời nói miệng thoải mái, thậm chí còn thô lỗ tục tằn". Như vậy, từ thông tục có thể được hiểu ở hai cấp độ; cấp độ thứ nhất là những từ sử dụng thông thường mà quần chúng dễ hiểu, dễ tiếp thu; cấp độ thứ hai là những từ thô lỗ tục tằn chỉ trong lời nói miệng thoải mái. Cả hai cấp độ này đều được xuất hiện trong môi trường giao tiếp sinh hoạt


hằng ngày. Khảo sát hệ thống từ ngữ thông tục trong một số tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới của Ma Văn Kháng và một số tác giả khác chúng tôi thấy (xem bảng 3.2):


Tác phẩm


Tác giả


Số trang

Từ ngữ thông tục

Tỷ lệ tính trê n trang

văn bản

Số lượng

Số lần

Mùa lá rụng trong vườn

Ma Văn Kháng

359

155

180

0,50

Đán cướ i không có

giấy giá thú


Ma Văn Kháng

397

198

209

0,53

Côi cút giữa cảnh đời

Ma Văn Kháng

278

149

160

0,57

Quê nhà

Tô Hoài

290

96

112

0,39

Thời xa vắng

Lê Lựu

405

87

98

0,24

Bảng 3.2: Từ ngữ thông tục trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới của Ma Văn Kháng.

Hệ thống từ thông tục được khá nhiều các nhà văn hiện thực làm phương tiện sáng tạo nghệ thuật, Ma Văn Kháng cũng không nằm ngoài quy luật đó. Ngay từ những tác phẩm đầu tay Ma Văn Kháng đã sử dụng một cách có hiệu quả vốn từ ngữ thông tục của mình. Bởi thế, hệ thống từ ngữ thông tục đã được Ma Văn Kháng sử dụng một cách thường xuyên và có nét sáng tạo độc đáo.

Nhìn vào bảng khảo sát chúng tôi nhận thấy, sự xuất hiện từ thông tục trong sáng tác của Ma Văn Kháng chiếm một tỷ lệ cao (so với các tác giả mà chúng tôi so sánh). Tác phẩm Thời xa vắng của Lê Lựu chúng tôi thấy cứ 4,1 trang văn bản mới xuất hiện một từ thông tục. Trong cuốn Phong cách nghệ thuật Tô Hoài, Tiến sĩ Mai Thị Nhung đã thống kê, khảo sát về từ ngữ thô ng tục của nhà văn Tô Ho ài và một số tác phẩm của một số nhà văn khác và có kết quả như sau; Nếu ở Ngô Tất Tố cứ 6,2 trang văn bản mới xuất hiện một từ ngữ thông tục; Nam Cao 3,3 trang văn bản mới xuất hiện một từ ngữ thông tục; Tô Hoài có tần số xuất hiện cao hơn cả kho ảng 2 trang văn bản có một từ ngữ thông tục, thì Ma Văn Kháng chúng tôi nhận thấy cứ trung bình 1,9 trang văn bản lại xuất hiện một từ thô ng tục. Như vậy, ta thấy

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/09/2023