Nguyên Tắc Hợp Tác Và Cơ Chế Hoạt Động Của Hành Lang Kinh Tế Đông Tây

thánh địa Mỹ Sơn của Quảng Nam (Việt Nam) sẽ là những điểm du lịch hấp dẫn tạo ra khả năng du lịch xuyên vùng, thúc đẩy sự kết hợp chặt chẽ giữa du lịch văn hóa, lịch sử và du lịch sinh thái [143, tr5-6].

Hình 1 2 Vị trí của Hành lang kinh tế Đông Tây Nguồn Asian Development Bank 2009 1

Hình 1.2: Vị trí của Hành lang kinh tế Đông Tây

Nguồn: Asian Development Bank (2009), East-West Economic Corridor (EWEC) Strategy and Action Plan, Development Study of the East-West Economic Corridor Greater Mekong Subregion, Manila, tr15.

- Thứ ba, bên cạnh những đặc điểm được khẳng định là tích cực và ưu thế, Hành lang kinh tế Đông Tây vẫn có rất nhiều những thách thức phát triển:

+ Các địa phương dọc hành lang hầu hết đều nghèo, trình độ phát triển thấp, chậm chuyển đổi, dân cư đông và xa các trung tâm, đô thị phát triển. Cũng vì vậy, ở đây dân trí thấp, tay nghề và kỷ luật lao động thấp, vẫn còn những tập tục sản xuất lạc hậu. Đây cũng là vùng tập trung hầu hết các dân tộc thiểu số của các nước vì vậy, ngoài những hạn chế về chỉ số phát triển kinh tế và chỉ số phát triển con người, đây còn là các vùng luôn phức tạp và dễ tổn thương về mặt xã hội và an ninh, nghĩa là nguy cơ xảy ra các xung đột về sắc tộc, tông giáo luôn tiềm ẩn ở các địa phương dọc hành lang, nhất là các vùng nằm dọc biên giới Thái Lan và Myanmar.

+ Thực chất hợp tác trên Hành lang kinh tế Đông Tây là hợp tác giữa các đối tác yếu - yếu. Khả năng bổ sung cho nhau, về lý thuyết là to lớn song việc hiện thực hóa các khả năng này là rất khó khăn. Khon Kaen và Đà Nẵng được coi là động lực cho hành lang, trên thực tế đây vẫn là những trung tâm phát triển chậm và thấp xa so với các vùng kinh tế trọng điểm quốc gia khác của Thái Lan và Việt Nam. Vì vậy, chúng chưa thể trở thành các cú hích cho Hành lang kinh tế Đông Tây. Hơn nữa, dù các nước Myanmar, Thái Lan, Lào và Việt Nam đều là thành viên của ASEAN, AEC, nhưng các địa phương của các nước này thuộc EWEC vẫn là phân mảnh, khu biệt trong việc hướng tới một thị trường có thể bổ sung cho nhau. Các địa phương dọc hành lang hầu như vì mục tiêu phát triển của mình đều đang hướng tới tiếp cận các thị trường phát triển và lớn trong khu vực và trên thế giới nằm bên ngoài phạm vi hành lang.

+ Về phương diện phát triển hạ tầng giao thông, Hành lang kinh tế Đông Tây mới phát triển về đường bộ, đường sắt chỉ có các đoạn ngắn như là sự tiếp nối của các trục giao thông Bắc - Nam ở các nước thành viên, hàng không mới sơ khởi và vẫn thuộc đẳng cấp thấp của khu vực và đường thủy thì rất khó khăn, hiểm trở.

+ Tính đồng bộ và cơ chế phối hợp giữa các địa phương trên toàn tuyến Hành lang kinh tế Đông Tây vẫn còn thấp và thiếu. Các Hiệp định giao thông xuyên biên giới như các Hiệp định về đường bộ giữa Thái Lan và Lào, giữa Lào và Việt Nam vẫn còn hiệu lực nhưng chưa hoàn thiện và đầy đủ; Các kế hoạch thành lập vùng công nghiệp và các khu công nghiệp đặc biệt ở các khu biên giới và cửa ngõ giao thông để tăng cường đầu tư tư nhân vào sản xuất, thương mại và phát triển công nghiệp cho hành lang đã được đưa ra nhưng chưa được tổ chức thực thi và triển khai có kết quả...

+ Hành lang kinh tế Đông Tây hầu như nằm trọn ở ASEAN lục địa, khu vực được coi là vùng “đệm” để cân bằng chiến lược phát triển với các nước lớn giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa Đông Nam Á và Đông Bắc Á. Do tầm quan trọng chiến lược của mình, Hành lang kinh tế Đông Tây có thuận lợi trong việc thu hút sự quan tâm và gia tăng đầu tư phát triển của các nước lớn. Song đồng thời nó cũng gặp thách thức lớn vì xuất phát từ các tiếp cận chiến lược khu vực khác nhau, nước này muồn hành lang này phát triển, nước kia lại không và ngược lại. Do vậy, quan điểm phát triển và thái độ chính trị của các nước thành viên trong xây dựng hành lang Đông Tây bị chi phối rất lớn bởi rất nhiều động thái lợi ích [143, tr8-9].

Tiểu kết chương 1:

Thế kỷ 21 toàn cầu hoá tiếp tục phát triển sâu rộng và tác động tới tất cả các nước. Các quốc gia lớn nhỏ đang tham gia ngày càng tích cực vào quá trình hội nhập quốc tế. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển. Trong quá trình hội nhập, xu thế khu vực hoá và liên kết tiểu vùng được mở ra như sự bổ sung và như là một cách thích ứng với xu thế toàn cầu hoá. Sự phồn vinh của cả khu vực sẽ là nền tảng cho sự phát triển của mỗi nước riêng biệt. Với các đặc điểm địa chính trị, địa kinh tế, hợp tác tiểu vùng làm giảm đi những đặc điểm dị biệt của mỗi nước và góp phần tăng cường phối hợp chính sách, liên kết kinh tế giữa các nước.

Trong xu thế mới của bối cảnh hội nhập và phát triển, quan hệ hợp tác song phương và đa phương trong khu vực không chỉ dừng lại ở phạm vi giữa các quốc gia mà còn diễn ra giữa các vùng, các địa phương. Cơ chế hợp tác nêu trên là cơ sở của việc hình thành tuyến Hành lang kinh tế Đông Tây, một trong những hiện thực hóa của Chương trình hợp tác Tiểu vùng sông Mekong mở rộng với chiến lược tăng cường liên kết thông qua hội nhập đa ngành, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững, tạo điều kiện cho thương mại xuyên biên giới và đầu tư, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân lưu vực sông Mekong. Hợp tác EWEC đã và đang thu hút được sự quan tâm chú ý của nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới, nhất là các nước ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Từ lý thuyết đến thực tiễn đã chứng minh rằng sự hình thành và phát triển của EWEC sẽ đem lại lợi ích thiết thực cho các nước thành viên và thúc đẩy quá trình phát triển của hợp tác GMS, ASEAN và châu Á - Thái Bình Dương. Để làm rõ tiến trình hợp tác kinh tế giữa các nước thuộc Hành lang kinh tế Đông Tây (1998 - 2010), chương sau sẽ đi sâu xem xét cụ thể thực trạng hợp tác kinh tế giữa các nước EWEC từ khi hình thành đến năm 2010.

CHƯƠNG 2

SỰ TIẾN TRIỂN CỦA CÁC LĨNH VỰC HỢP TÁC KINH TẾ GIỮA CÁC NƯỚC THUỘC HÀNH LANG KINH TẾ ĐÔNG TÂY (1998 - 2010)


Sự ra đời của Hành lang kinh tế Đông Tây tạo điều kiện cho các nước trong khu vực Tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS) gồm: Myanmar, Thái Lan, Lào và Việt Nam tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác kinh tế nhằm thúc đẩy giao lưu thương mại, đầu tư và phát triển giữa các nước, giảm chi phí lưu thông hàng hóa, hành khách trong khu vực hành lang và tạo điều kiện cho việc lưu thông được thuận lợi và hiệu quả, góp phần giảm nghèo, hỗ trợ phát triển khu vực dọc biên giới và các vùng nông thôn, tăng thu nhập cho các hộ thu nhập thấp, cung cấp việc làm cho phụ nữ và phát triển du lịch. Thêm vào đó, Hành lang kinh tế Đông Tây cũng sẽ góp phần hỗ trợ phát triển công - nông nghiệp và du lịch.

Qua quá trình phát triển hơn 10 năm (1998 - 2010), hợp tác kinh tế giữa các nước nằm dọc Hành lang kinh tế Đông Tây đã đạt được một số kết quả rất đáng ghi nhận được thể hiện trên các lĩnh vực: Đầu tư, thương mại, giao thông vận tải, du lịch, nông - công nghiệp và một số lĩnh vực khác.

2.1. Nguyên tắc hợp tác và cơ chế hoạt động của Hành lang kinh tế Đông Tây

EWEC là một dự án được ưu tiên triển khai của GMS. Vì vậy, EWEC cũng phải tuân thủ theo các nguyên tắc hợp tác và cơ chế hoạt động của GMS. Hợp tác EWEC phải dựa trên nguyên tắc chung và 6 nguyên tắc hợp tác cụ thể đã được các Bộ trưởng GMS thông qua. Nguyên tắc chung là tự nguyện, cùng có lợi và tôn trọng chủ quyền quốc gia; 6 nguyên tắc hợp tác cụ thể bao gồm: 1. Hợp tác GMS phải tạo điều kiện duy trì tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống của nhân dân trong tiểu vùng. Các chương trình và dự án GMS cần phản ánh sự cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển nguồn nhân lực, xóa đó giảm nghèo và bảo vệ môi trường; 2. Các dự án có thể thu hút một số quốc gia trong tiểu vùng và không nhất thiết phải bao gồm cả 6 nước. Các thỏa thuận song phương trong tiểu vùng là bộ phận cấu thành của hợp tác tiểu vùng; 3. Việc cải tạo hoặc khôi phục những cơ sở hiện có được ưu tiên cao hơn những việc xây dựng những cơ sở mới; 4. Khuyến khích tài trợ cho các dự án tiểu

vùng từ nguồn vốn Chính phủ và tư nhân; 5. Các nước thành viên Tiểu vùng cần thường xuyên gặp gỡ trao đổi để duy trì động lực thúc đẩy tiến trình hợp tác phát triển; 6. Các dự án hợp tác sẽ không làm tổn hại lợi ích của bất kỳ quốc gia nào, bất kể lợi ích hiện có hoặc sẽ có trong tương lai [113, tr25-26].

Căn cứ vào các nguyên tắc hợp tác đã đề ra, GMS thống nhất về cơ chế hoạt động theo 5 hình thức là Hội nghị cấp cao GMS; Hội nghị cấp Bộ trưởng; Diễn đàn ngành và Nhóm công tác; Ủy ban điều phối quốc gia GMS và Ban thư ký. Chức năng nhiệm vụ của các hình thức tổ chức cụ thể như sau:

- Hội nghị cấp cao GMS: Là cấp hoạch định chính sách của GMS, thay mặt Chính phủ các nước thành viên quyết định các chủ trương, chính sách, thông qua sáng kiến hợp tác mới, cam kết các thỏa thuận và ế hoạch hành động của Chương trình; thực hiện đối thoại với các nhà đầu tư quốc tế.

- Hội nghị cấp Bộ trưởng: họp hàng năm.

- Diễn đàn ngành và Nhóm công tác: Trong GMS có 3 diễn đàn chính thuộc ngành là Giao thông vận tải, Năng lượng và Bưu chính viễn thông. Các diễn đàn ngành được tiến hành ở cấp người đứng đầu ngành (thường là bộ trưởng chuyên ngành); GMS hình thành 4 nhóm công tác: Nhóm công tác về hợp tác thương mại và hoạt động đầu tư; Nhóm công tác về hợp tác phát triển nguồn nhân lực; Nhóm công tác về hợp tác phát triển du lịch và Nhóm công tác về quản lý môi trường và tài nguyên thiên nhiên.

Diễn đàn ngành và Nhóm công tác có nhiệm vụ triển khai các quyết định của Hội nghị cấp cao; nghiên cứu, tư vấn và kiến nghị Chương trình hợp tác trong lĩnh vực của mình lên Hội nghị cấp cao GMS.

- Ủy ban điều phối quốc gia GMS: Mỗi thành viên thành lập Ủy ban điều phối quốc gia về hợp tác Tiểu vùng Mekong mở rộng của riêng mình. Đây là tổ chức đầu mối của sự hợp tác nhằm gắn liền các Chính phủ thành viên với toàn bộ GMS. Ngoài ra, Ủy ban điều phối quốc gia GMS có chức năng trực tiếp tham mưu cho Chính phủ trong các hoạt động hợp tác của GMS.

- Ban thư ký: Ngân hàng Phát triển Châu Á đóng vai trò là Ban thư ký của GMS. Chức năng chủ yếu của Ban thư ký là điều phối chung các hoạt động của GMS. Trong cơ cấu tổ chức của ADB, có phòng GMS thuộc Vụ miền Đông của Ngân hàng này [113, tr26-27].

EWEC là một trong những dự án hợp tác phát triển trụ cột trong Tiểu vùng Mekong mở rộng, đã được thảo luận và thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng các quốc gia GMS lần thứ 8 tổ chức tại Philippines tháng 10/1998 và được Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6 chính thức đưa vào Chương trình hành động Hà Nội tháng 12/1998. Trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc hợp tác và cơ chế hoạt động của GMS, EWEC thống nhất về cơ chế hoạt động bao gồm Hội nghị cấp cao EWEC (SOM EWEC) và hoạt động của Ban công tác phát triển Hành lang Đông Tây thuộc Ủy

ban hợp tác kinh tế và công nghiệp ASEAN-METI.

Có thể khái quát thể chế hợp tác của EWEC bằng sơ đồ dưới đây:



Hội nghị cấp cao EWEC




Ban công tác phát triển EWEC



Cuộc họp chuyên viên cao cấp





Nhóm công tác Đầu tư



Nhóm công tác Thương mại





Nhóm công tác nông nghiệp và công nghiệp



Nhóm công tác Du lịch





Diễn đàn Giao thông



Diễn đàn Năng lượng





Diễn đàn hợp tác EWEC



Các hội nghị, hội thảo của các bên liên quan


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 206 trang tài liệu này.


Các hội nghị, hội thảo, diễn đàn của các bên liên quan đã được tổ chức từ năm 1998 đến năm 2010 để thảo luận và thống nhất về sự cần thiết, lợi ích, sự hưởng ứng,

nội dung, các lĩnh vực hợp tác và lợi thế của các địa phương và các quốc gia khi tham gia các dự án hợp tác trên EWEC.

- Về sự cần thiết, lợi ích và sự hưởng ứng của các bên liên quan khi tham gia hợp tác trên EWEC được đề cập trong các hội nghị tiêu biểu sau đây:

* Hội nghị Ngoại trưởng 4 nước Việt Nam, Lào, Thái Lan và Nhật Bản về khai thác và sử dụng cây cầu Mekong thứ hai và phát triển phần phía Đông của EWEC tại tỉnh Mukdahan (Thái Lan) ngày 22/11/2001.

* Hội thảo về nghiên cứu tiền đầu tư cho Tiểu vùng Mekong mở rộng: Hành lang kinh tế Đông Tây do Chính phủ Thái Lan phối hợp với ADB tổ chức tại Bangkok (Thái Lan) từ ngày 13 - 14/3/2001. Các nước Trung Quốc, Myanmar, Lào, Thái Lan và Việt Nam đã cử đại biểu tham dự. Hội thảo tập trung thảo luận các nội dung chính của bản nghiên cứu tiền đầu tư.

* Hội thảo phát triển EWEC do ADB, Bộ Ngoại giao Nhật Bản, Bộ Ngoại giao Việt Nam, JBIC, JICA đồng tổ chức tại thành phố Đà Nẵng từ ngày 16 - 17/12/2002.

* Hội nghị quan chức cao cấp (SOM) và Hội thảo về phát triển EWEC tại tỉnh Savannakhet (Lào) từ ngày 18 - 19/02/2004.

* Tuần lễ EWEC 2007 do Bộ Ngoại giao Việt Nam và UBND thành phố Đà Nẵng đồng tổ chức từ ngày 27/8 đến ngày 1/9/2007 tại Đà Nẵng với chủ đề “Hành lang hữu nghị và hợp tác kinh tế: Từ ý tưởng đến hiện thực.

* Hội thảo quốc tế “Du lịch Quảng Trị - hội nhập và phát triển” do Tổng cục du lịch Việt Nam và UBND tỉnh Quảng Trị đồng tổ chức tại Đông Hà - Quảng Trị, năm 2007.

* Hội thảo “Nhu cầu khách du lịch trên tuyến Hành lang Đông Tây - Cơ hội cho các địa phương” do khoa Du lịch - Đại học Huế và tổ chức phát triển Hà Lan Bắc miền Trung (SNV) về nghiên cứu nhu cầu khách du lịch tại các tỉnh dọc tuyến Hành lang kinh tế Đông Tây đồng tổ chức tại Huế, năm 2008.

* Hội nghị Bộ trưởng GMS lần thứ 15 được tổ chức tại tỉnh Petchburi, Thái Lan (từ ngày 17-19/06/2009), các bên cùng rà soát các hoạt động hợp tác giai đoạn 2002-2012 và kêu gọi các nhà đầu tư tài trợ cho các dự án trong đó trọng tâm là các

dự án về giao thông vận tải, phát triển nguồn nhân lực và đẩy mạnh hợp tác năng lượng giữa các quốc gia trong Tiểu vùng.

* Diễn đàn hành lang kinh tế GMS lần thứ 2 đã được tổ chức tại Phnom Penh - Campuchia vào tháng 9/2009, với mục tiêu thúc đẩy hợp tác và thắt chặt mạng lưới giữa các ngành và các Nhóm tham gia vào quá trình phát triển của hành lang kinh tế GMS.

* Hội thảo quốc tế “Hợp tác phát triển du lịch giữa các tỉnh Bắc miền Trung Việt Nam với Lào và Thái Lan” do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thừa Thiên Huế phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình tổ chức tại Huế, năm 2010.

* Diễn đàn Hợp tác Hành lang Kinh tế Đông- Tây do UBND tỉnh Quảng Trị phối hợp với Bộ Ngoại tổ chức tại Đông Hà - Quảng Trị từ ngày 26 - 27/6/2010. Diễn đàn nhằm khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của Hành lang kinh tế Đông Tây đối với sự phát triển của khu vực và các tỉnh, thành phố trên tuyến hành lang; đồng thời đề xuất các chủ trương và giải pháp tháo gỡ vướng mắc hiện nay nhằm kêu gọi đầu tư, thúc đẩy thương mại, du lịch và tranh thủ sự hợp tác quốc tế để khai thác có hiệu quả và phục vụ phát triển kinh tế các nước trên hành lang.

- Kết quả của các hội nghị, hội thảo, diễn đàn:

+ Khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của EWEC đối với sự phát triển của khu vực và các tỉnh, thành phố trên tuyến hành lang;

+ Khẳng định ý chí và quyết tâm chính trị của các quốc gia liên quan, cũng như các nhà tài trợ về thúc đẩy phát triển EWEC;

+ Tuyên truyền tiềm năng, lợi thế của hành lang cho các nhà đầu tư;

+ Khuyến khích sự tham gia và hợp tác giữa các địa phương EWEC;

+ Có tác động tích cực đến tiến độ các công trình của hành lang;

+ Góp phần nâng cao nhận thức và hành động của các nhà tài trợ quốc tế, của chính phủ các nước, các địa phương và cộng đồng doanh nghiệp trên hành lang về những cơ hội phát triển của Hành lang kinh tế Đông Tây.

+ Đề xuất các chủ trương và giải pháp tháo gỡ vướng mắc hiện nay nhằm kêu gọi đầu tư, thúc đẩy thương mại, du lịch và tranh thủ sự hợp tác quốc tế để khai thác có hiệu quả và phục vụ phát triển kinh tế các nước trên hành lang.

Xem tất cả 206 trang.

Ngày đăng: 14/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí