Việt Nam và Lào đã thực hiện công cuộc đổi mới đất nước vào năm 1986. Quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào giảm dần tính bao cấp, tập trung chuyển sang sản xuất hạch toán kinh doanh cùng có lợi. Hai nước vẫn dành cho nhau những ưu tiên, ưu đãi để tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội ở mỗi nước.
Từ năm 1990 trở đi, công cuộc đổi mới ở Việt Nam và ở Lào đã đạt được những thành tựu đáng kể, quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào đã thực hiện theo phương hướng chiến lược, có kế hoạch, có chương trình hợp tác cụ thể và được thực hiện dưới nhiều hình thức (Hợp tác, liên doanh, liên kết, đầu tư, đấu thầu…). Đặc biệt, hai nước chú trọng dành ưu tiên cho nhau trong hoạt động đầu tư và thương mại.
Ngày 15 tháng 02 năm 1992, Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật thời kỳ 1992 - 1995 đã được ký kết giữa Chính phủ hai nước. Từ năm 1992 đến trước năm 1998, Chính phủ hai nước Việt Nam - Lào còn ký thêm nhiều thỏa thuận, cơ chế chung về hợp tác kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ kinh tế giữa hai nước phát triển và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Trên lĩnh vực đầu tư, thương mại giữa hai nước trong thời gian này có nhiều bước tiến quan trọng. Về đầu tư, hợp tác đầu tư giữa Việt Nam và Lào đã có từ những thập niên 80 của thế kỷ XX. Nhưng lúc đó chủ yếu là Việt Nam viện trợ, giúp đỡ Lào để xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển đất nước theo phương châm: bạn cần gì, ta giúp được gì, hai bên cùng thực hiện. Bước sang thập niên 90 của thế kỷ XX, khi công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới thu được nhiều thành quả đáng khích lệ, hai nước đã quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang Lào và cho các doanh nghiệp Lào đầu tư sang Việt Nam.
Tóm lại, quan hệ kinh tế giữa bốn quốc gia Myanmar, Thái Lan, Lào và Việt Nam đã có từ xa xưa. Nhưng do đặc điểm lịch sử phát triển của mỗi nước cùng với bối cảnh quốc tế và khu vực chi phối nên mối quan hệ này chưa được quan tâm và tập trung phát triển. Cho đến trước năm 1998, quan hệ kinh tế giữa bốn quốc gia bước đầu đã đạt được hiệu quả nhất định. Tuy nhiên mối quan hệ này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của cả bốn nước và chưa thực sự trở thành động lực thúc đẩy quan hệ toàn diện giữa Myanmar, Thái Lan, Lào và Việt Nam cũng như thúc đẩy quá trình hợp tác trong ASEAN. Mặc dù vậy, những kết quả hợp tác kinh tế
giữa bốn quốc gia Myanmar, Thái Lan, Lào và Việt Nam trước năm 1998 là những tiền đề quan trọng cho quá trình hợp tác kinh tế của bốn nước ở giai đoạn tiếp theo, nhất là hợp tác trong khuôn khổ Hành lang kinh tế Đông Tây.
1.5. Sáng kiến của Ngân hàng Phát triển châu Á và Nhật Bản
EWEC ra đời và phát triển có vai trò quan trọng của Ngân hàng Phát triển châu Á, của Nhật Bản, Trung Quốc và các nhà ngoại giao, chuyên gia các nước Australia, Nga, Ukraine, Ấn Ðộ, Chile... EWEC không chỉ gắn kết các nền kinh tế các quốc gia Tiểu vùng Mekong mà còn là cầu nối hợp tác hữu nghị, liên kết kinh tế và phát triển giữa các nước bên bờ Thái Bình Dương với các nước bên bờ Ấn Ðộ Dương và vươn xa tới Tây bán cầu.
1.5.1. Vai trò của Ngân hàng Phát triển châu Á
Hành lang kinh tế Đông Tây do ADB và Nhật Bản khởi xướng và được 4 nước Việt Nam, Myanmar, Lào và Thái Lan tán thành và ủng hộ.
Quan điểm của ADB về EWEC được thể hiện: Hợp tác kinh tế EWEC được hình thành dựa vào các yếu tố là Tuyến hành lang dài 1450 km, đi qua 13 tỉnh của 4 nước Myanmar, Thái Lan, Lào và Việt Nam, có nhiều nét tương đồng thể hiện ở chỗ các địa phương dọc hành lang đa số đều tương đối nghèo, chậm phát triển, đông dân cư và xa cách về mặt địa lý; Nông nghiệp đóng vai trò quan trọng, sự phát triển của công nghiệp còn hạn chế; thiếu vốn, công nghệ và công nghệ quản lý hiện đại, thiếu cán bộ được đào tạo tốt; có nhiều tiềm năng phát triển.
ADB khởi xướng và hỗ trợ phát triển EWEC nhằm mục tiêu tạo điều kiện cho các nước trong khu vực tiểu vùng sông Mekong mở rộng gồm Myanmar, Thái Lan, Lào và Việt Nam tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác kinh tế. EWEC nhằm thúc đẩy giao lưu thương mại, đầu tư và phát triển giữa các nước, giảm chi phí lưu thông hàng hóa, hành khách trong khu vực hành lang và tạo điều kiện cho việc lưu thông được thuận lợi và hiệu quả. EWEC góp phần giảm nghèo, hỗ trợ phát triển khu vực dọc biên giới và các vùng nông thôn, tăng thu nhập cho các hộ thu nhập thấp, cung cấp việc làm cho phụ nữ và phát triển du lịch. Thêm vào đó, Hành lang kinh tế Đông Tây cũng sẽ góp phần hỗ trợ phát triển công - nông nghiệp và du lịch.
Hỗ trợ đầu tiên của ADB cho việc phát triển Hành lang kinh tế Đông Tây được thực hiện thông qua một khoản vay ưu đãi trị giá 57 triệu USD vào năm 1999, chủ
yếu để tài trợ cho việc xây dựng và nâng cấp đường giao thông tại Việt Nam và Lào.
Từ năm 1998 đến năm 2010, ADB luôn hỗ trợ tích cực cho tiến trình hợp tác kinh tế giữa các nước và các địa phương nằm dọc EWEC. Sự hỗ trợ của ADB được thể hiện thông qua việc tài trợ cho các hội nghị, hội thảo quốc tế và quốc gia ở các nước thành viên EWEC để thúc đẩy các nghiên cứu lý luận về hợp tác EWEC; đầu tư cho các dự án phát triển hạ tầng nhất là hạ tầng giao thông trên EWEC... Trong một bản thông cáo báo chí của Ngân hàng Phát triển châu Á ngày 15 tháng 06 năm 2009, Vụ trưởng Vụ Đông Nam Á của ADB, ông Arjun Thapan đã khẳng định ý nghĩa của EWEC: “Các con đường mòn nhỏ hẹp và bụi bặm đã nhường chỗ cho những quốc lộ hiện đại được sử dụng để chuyên chở hàng điện tử, hoa quả đầy hấp dẫn và du khách”. Trong giai đoạn đầu phát triển của EWEC, hai đối tác chính đầu tư vào khu vực này là ADB và Nhật Bản. Với sự hỗ trợ tài chính kỹ thuật của hai đối tác này, các hạng mục lớn trên tuyến hành lang là hầm đường bộ xuyên Đèo Hải Vân và cầu hữu nghị 2 nối Savannkhet của Lào với Mukdahan của Thái Lan đã hoàn thành, góp phần mang lại nhiều thay đổi kinh tế - xã hội cho khu vực.
1.5.2. Vai trò của Nhật Bản
Do những thuận lợi khách quan và do ưu thế về nguồn lực, trong thập kỷ 90, ảnh hưởng của Nhật Bản đã chiếm được ưu thế ở Đông Nam Á nói chung và Đông Dương nói riêng. Nhật Bản trở thành nước đóng vai trò chủ đạo trong các hoạt động tái thiết Đông Dương. Tháng 1/1993 Thủ tướng Nhật Bản Kiichi Miyazaoa đưa ra sáng kiến tổ chức Diễn đàn phát triển toàn diện Đông Dương. Thực hiện sáng kiến trên, tháng 2/1995, Hội nghị Bộ trưởng Diến đàn này đã được khai mạc ở Tokyo dưới sự chủ trì của Nhật Bản. Mục đích của Hội nghị là: Phát triển các nước Đông Dương dựa trên triển vọng của khu vực; Hợp tác quốc tế thông qua điều phối tự nguyện các hỗ trợ dựa trên sự trao đổi thông tin giữa các quốc gia và các tổ chức; thúc đẩy kinh tế thị trường ở các nước Đông Dương [82, tr30].
Trong chính sách đối với Đông Dương, Nhật Bản đặc biệt coi trọng việc phát triển Tiểu vùng Mekong. Tháng 3/1996, Nhật Bản đã thành lập Nhóm đặc nhiệm về chiến lược phát triển lưu vực sông Mekong. Tháng 8/1996, Nhóm tác chiến trên đã trình báo cáo của họ và đề xuất cách tiếp cận đối với khu vực này. Nhận thức được tầm quan trọng của Tiểu vùng Mekong, Chính phủ Nhật Bản đã đề xuất sáng kiến
phát triển khu vực Mekong nhằm 3 mục tiêu sau:
- Đảm bảo sự ổn định của toàn Châu Á.
- Tăng cường hội nhập khu vực.
- Thúc đẩy thương mại đầu tư, quan hệ con người và quan hệ đối tác.
Để triển khai sáng kiến trên Nhật Bản đề ra 3 cách tiếp cận. Đó là:
1. Cách tiếp cận bao trùm lên toàn bộ khu vực. Với cách tiếp cận này các dự án mở rộng ra toàn khu vực sẽ được triển khai.
2. Cách tiếp cận bán khu vực. Cách tiếp cận này đề cập tới các dự án mang lại lợi ích.
3. Cách tiếp cận song phương. Theo cách tiếp cận này, một số dự án nhằm giảm chênh lệch về trình độ phát triển sẽ được triển khai [82, tr32].
Trong dự án hợp tác phát triển khu vực Mekong, vai trò của Hành lang kinh tế Đông Tây rất quan trọng. Nước nào nắm được hành lang này sẽ khống chế được bán đảo Đông Dương và như vậy sẽ chiếm được ảnh hưởng ưu thế ở Đông Nam Á. Phát triển Hành lang kinh tế Đông Tây sẽ tạo tác động lan toả, lôi cuốn các vùng ngoại vi hành lang này vào luồng phát triển chung. Như vậy, phát triển Hành lang Đông Tây chính là chìa khoá để phát triển hạ lưu Mekong.
Xuất phát từ các mục tiêu trên, sáng kiến thành lập EWEC của Nhật Bản là nhằm: Thứ nhất, thông qua EWEC, thúc đẩy quan hệ với toàn khối ASEAN.
Thứ hai, Xây dựng con đường vận tải trên bộ nối Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, giảm bớt sự phụ thuộc của Nhật Bản vào con đường vận tải chảy qua eo Malacca.
Thứ ba, với sự ra đời của EWEC sẽ tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư của Nhật Bản tới đầu tư ở các tỉnh dọc hành lang này [82, tr32-33].
ADB và Nhật Bản đã đầu tư trên toàn tuyến EWEC nối các quốc gia và điểm cuối của EWEC là các cảng biển Việt Nam.
EWEC mang lại lợi ích thiết thực đối với Nhật Bản. Qua thống kê dưới đây cho ta thấy tỉ trọng xuất nhập khẩu giữa Nhật Bản với các nước trên tuyến Hành lang kinh tế Đông Tây.
Bảng 1.1: Tỉ trọng thương mại của các nước EWEC với Nhật Bản
(tính đến hết tháng 10/2008)
Đơn vị tính: 1.000 USD
Xuất khẩu sang Nhật | Nhập khẩu từ Nhật | Balance | |
Việt Nam | 7.633.047 | 6.686.988 | 946.059 |
Thái Lan | 17.460.244 | 24.814.940 | -7.354.696 |
Lào | 15.250 | 47.931 | -32.681 |
Myanmar | 255.758 | 158.050 | 97.708 |
Có thể bạn quan tâm!
- Nhóm Các Công Trình Nghiên Cứu Về Hợp Tác Tiểu Vùng Mekong Mở Rộng
- Một Số Cơ Sở Lý Thuyết Về Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế
- Khái Quát Hợp Tác Kinh Tế Giữa Myanmar, Thái Lan, Lào Và Việt Nam Trước Năm 1998
- Nguyên Tắc Hợp Tác Và Cơ Chế Hoạt Động Của Hành Lang Kinh Tế Đông Tây
- Hợp Tác Đầu Tư Giữa Các Nước Thuộc Hành Lang Kinh Tế Đông Tây
- Xuất Khẩu Qua Biên Giới Trên Ewec (2002-2008)
Xem toàn bộ 206 trang tài liệu này.
Nguồn: 2008, JETRO (Bộ Tài Chính Nhật)
Thứ tư, việc xây dựng EWEC còn nhằm mục tiêu cạnh tranh với Trung Quốc trong hợp tác tiểu vùng Mekong. Ý định biến Hành lang Đông Tây thành Hành lang kinh tế Đông Tây của Nhật Bản được các nước liên quan ủng hộ. Bởi vì, khi được xây dựng xong, Hành lang kinh tế Đông Tây sẽ góp phần biến 13 tỉnh dọc hành lang này thành khu vực phát triển kinh tế, thu hẹp khoảng cách phát triển với các khu vực khác ở Đông Dương. Ngoài ra, sự có mặt của Nhật Bản ở khu vực này cũng giúp cân bằng ảnh hưởng của Trung Quốc ở Đông Dương, phù hợp với chính sách của ASEAN ở thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh [82, tr33-34].
1.6. Đặc điểm của Hành lang kinh tế Đông Tây
Hành lang kinh tế Đông Tây có những đặc điểm sau:
- Thứ nhất, Hành lang kinh tế Đông Tây là tuyến giao thông dài 1450 km, đi qua 4 nước, bắt đầu từ thành phố cảng Mawlamyine (bang Mon) đến cửa khẩu Myawaddy (bang Kayin) ở biên giới Myanmar - Thái Lan. Ở Thái Lan, bắt đầu từ Mae Sot, chạy qua 7 tỉnh: Tak, Sukhothai, Kalasin, Phitsanulok, Khon Kaen, Yasothon và Mukdahan. Ở Lào, chạy từ tỉnh Savannakhet đến cửa khẩu Dansavanh và ở Việt Nam, chạy từ cửa khẩu Lao Bảo qua các tỉnh thành Quảng Trị, Huế và Đà Nẵng. Đây là tuyến hành lang dài nhất trong 5 hành lang kinh tế của GMS theo sáng kiến của ADB, chạy qua nhiều nước GMS nhất (4 nước). Hành lang kinh tế Đông Tây là con đường huyết mạch nối liền GMS với không gian kinh tế sông Hằng (Ấn Độ), rút ngắn khoảng cách và phí tổn cho việc mở rộng giao lưu kinh tế giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.
13 tỉnh của 4 nước thuộc Hành lang kinh tế Đông Tây là những địa phương có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế nhưng đa số đều tương đối nghèo và chậm phát triển.
Bảng 1.2: Thông tin về các tỉnh, thành phố thuộc EWEC
Tên tỉnh, thành phố | Diện tích (km2) | % so với diện tích cả nước | Dân số (người) | % so với dân số cả nước | |
1 | Mawlamyine | 12.155 | 1,79 | 300.000 | 0,55 |
2 | Kayin | 30.383 | 4,49 | 1.431.377 | 2,65 |
3 | Tak | 16.406,6 | 3,19 | 486.146 | 0,74 |
4 | Sukhothai | 6.596,1 | 1,28 | 593.264 | 0,91 |
5 | Kalasin | 6.946,7 | 1,35 | 921.366 | 1,41 |
6 | Phitsanulok | 10.815,8 | 2,10 | 792.678 | 1,21 |
7 | Khon Kaen | 10.886,0 | 2,11 | 1.733.434 | 2,66 |
8 | Yasothon | 4.161,7 | 0,80 | 561.430 | 0,86 |
9 | Mukdahan | 4.339,8 | 0,84 | 310.718 | 0,47 |
10 | Savannakhet | 21.774 | 9,19 | 872.159 | 12,82 |
11 | Quảng Trị | 4744,3 | 1,43 | 598.000 | 0,67 |
12 | Thừa Thiên Huế | 5065,3 | 1,52 | 1.087.600 | 1,22 |
13 | Đà Nẵng | 1283,4 | 0,38 | 887.100 | 0,99 |
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Phòng Thông tin đối ngoại - Sở ngoại vụ Quảng Trị năm 2010
Nhìn vào bảng số liệu trên chúng ta thấy Hành lang kinh tế Đông Tây là một liên vùng rộng lớn bao gồm các tỉnh thuộc miền Trung Việt Nam, Trung và Hạ Lào, Đông Bắc Thái Lan và một phần lãnh thổ Myanmar. Các địa phương của Việt Nam nằm ở đầu phía Đông của hành lang, đầu mối thông thương ra biển Đông không chỉ của EWEC mà của cả Tiểu vùng Mekong mở rộng. Ba địa phương của Việt Nam thuộc EWEC chiếm tỷ lệ 3,33% diện tích và 2,88% dân số cả nước. Thành phố Đà Nẵng và các tỉnh Thừa Thiên Huế, Quảng Trị có nhiều tiềm năng phát triển về vị trí địa lý, kinh tế biển, văn hóa, lịch sử, nhân lực cùng với một số tỉnh lân cận như Quảng Nam, Quảng Ngãi... nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung của Việt
Nam. Tỉnh Savannakhet của Lào trên EWEC chiếm tỷ lệ 9,19% diện tích và 12,82% dân số cả nước. Savannakhet có lợi thế của khu vực đất rộng, người thưa, nhiều tiềm năng chưa được khai thác, hệ thống giao thông đường bộ, đường sông và đường hàng không khá thuận lợi để phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp. Các tỉnh Đông Bắc Thái Lan thuộc hành lang chiếm tỷ lệ 11,67% diện tích và 8,26% dân số cả nước. Đây là khu vực có nhiều khoáng sản quan trọng như: Apatít, đồng đỏ, mangan, quặng, vàng, chì và khí đốt thiên nhiên. Đây cũng là khu vực có nhiều điểm du lịch đặc biệt riêng hấp dẫn du khách đặc trưng cho sự phát triển của dân tộc Thái. Các tỉnh Đông Bắc Thái Lan có quan hệ gần gũi với các tỉnh Nam Lào. Đồng thời đây là một vùng có tiềm năng, khả năng sản xuất lương thực, chế biến nông lâm sản khá lớn của Vương quốc Thái Lan. Các tỉnh của Myanmar thuộc hành lang chiếm tỷ lệ 3,28% diện tích và 3,20% dân số cả nước. Đây là khu vực có lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, đất trồng trọt lớn và vị trí chiến lược, vì thế có tiềm năng vô cùng to lớn trong việc tăng cường hợp tác liên vùng cũng như việc ổn định khu vực.
Tóm lại, các địa phương nằm dọc tuyến hành lang của Myanmar, Thái Lan, Lào và Việt Nam đều có những lợi thế so sánh trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên đây là khu vực tương đối nghèo, chậm phát triển, đông dân cư và xa cách về mặt địa lý. Do vậy, dự án này mở đường giúp xóa đói, giảm nghèo cho hàng triệu người ở cả bốn nước, góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển và tăng cường liên kết giữa vùng này với những khu vực khác trong ASEAN cũng như với các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Thứ hai, Hành lang kinh tế Đông Tây có nhiều ưu thế được thể hiện trên các mặt sau:
+ Hành lang kinh tế Đông Tây là trục cắt ngang trong mạng lưới giao thông tiểu vùng vì thế nó không chỉ khơi dậy khả năng phối hợp phát triển giữa các thành phố lớn dọc tuyến hành lang như: Mawlamyine, Phitsanulok, Khon Kaen, Savannakhet, Huế, Đà Nẵng mà còn tiếp nhận và bổ sung hiệu ứng phát triển của các trung tâm phát triển lớn ở các nước thành viên khi Hành lang Đông - Tây đã giao cắt với các trục tuyến đường huyết mạch giao thông Bắc Nam của cả 4 nước GMS.
+ Đây là cơ hội cho các vùng, địa phương nghèo trong GMS tiếp cận tốt hơn các nguồn tài nguyên, khoáng sản, hải sản và năng lượng của nhau, phục vụ tốt cho
các ngành sản xuất và chế biến, tạo điều kện phát triển cho các địa phương, vùng... vốn trước đây bị đặt ra ngoài các tiến trình hội nhập khu vực, thúc đẩy các hoạt động kinh tế - xã hội xuyên biên giới. Đặc biệt thông qua sử dụng hiệu quả không gian kinh tế và hình thành các khu vực kinh tế xuyên quốc gia, hành lang kinh tế này chính là khuôn khổ phát triển có khả năng tạo dựng hình ảnh và lôi cuốn được mối quan tâm đặc biệt của các nhà đầu tư thương mại bên ngoài vào Tiểu vùng.
+ Khon Kaen (Thái Lan) và Đà Nẵng (Việt Nam) được coi là hai trung tâm phát triển nhất của hành lang này, chúng có thể trở thành vùng động lực cho tất cả các địa phương trong GMS. Hành lang kinh tế Đông Tây chính là tiền đề nhân rộng khả năng bổ sung giữa các vùng động lực với các địa phương (các vùng vốn còn có chênh lệch phát triển và sự khác biệt quá lớn trong GMS). Như vậy, Hành lang kinh tế Đông Tây là sáng kiến để thực hiện thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước trong GMS nói riêng và giữa các nước GMS thuộc ASEAN với toàn ASEAN nói chung. Cúng tương tự như vậy, tiến trình hội nhập ASEAN (AFTA) và lộ trình xây dựng cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ đi vào thực chất hơn khi Hành lang kinh tế Đông Tây đi vào hoạt động hiệu quả.
+ Nhìn chung, Hành lang kinh tế Đông Tây bao gồm các địa phương, vùng, về cơ bản vẫn là sản xuất nông nghiệp (chiếm 20 - 50% tỷ trọng GDP của các địa phương này và vẫn chiếm tới 60 - 80% dân số là nông dân). Phát triển công nghiệp trên thực tế vẫn chỉ là chế biến các nguyên liệu nông nghiệp, tài nguyên và còn ở mức độ thấp. Dịch vụ hầu như chưa phát triển. Do vậy, Hành lang kinh tế Đông Tây được coi là khuôn khổ chiến lược khơi thông nguồn lực, khởi động tiến trình công nghiệp hóa mới ở các nước trong tiểu vùng. Hành lang kinh tế Đông Tây thực chất sẽ gắn hội nhập kinh tế khu vực với công nghiệp hóa và tạo không gian mới để thực hiện công nghiệp hóa mới. Nghĩa là tạo ra kênh quan trọng để lôi cuốn, dẫn dắt nguồn lực bên ngoài phục vụ cho nhu cầu công nghiệp hóa và phát triển bên trong của Tiểu vùng (khu vực GMS nếu tự mình sẽ không có đủ nguồn lực, nhất là không bao giờ có đủ vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa).
+ Hành lang kinh tế Đông Tây có tiềm năng lớn về phát triển du lịch nhờ tính đa dạng sinh học và truyền thống lịch sử văn hóa phong phú lâu đờ của nó. Di sản Sukhothai ở miền Bắc Thái Lan và đặc biệt hai di sản văn hóa thế giới: cố đô Huế và