Một Số Cơ Sở Lý Thuyết Về Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ CỦA HỢP TÁC KINH TẾ GIỮA CÁC NƯỚC THUỘC HÀNH LANG KINH TẾ ĐÔNG TÂY

1.1. Một số cơ sở lý thuyết về quan hệ kinh tế quốc tế

1.1.1. Khái niệm về hợp tác và hội nhập kinh tế khu vực

Hợp tác kinh tế khu vực là quá trình thông qua đó hai hay nhiều nước theo đuổi mục đích hoặc mục tiêu phát triển chung thông qua các hoạt động chung, phối hợp chung và đồng bộ. Hợp tác kinh tế vùng nói chung bao gồm các hoạt động hợp tác theo từng nội dung cụ thể với các chương trình và dự án hợp tác kinh tế trong vùng.

Hội nhập kinh tế khu vực là quá trình các nước trong khu vực thực hiện mô hình kinh tế mở, tự nguyện tham gia vào các định chế kinh tế quốc tế, thực hiện thuận lợi hoá thương mại, đầu tư; các nền kinh tế khu vực được kết nối với nhau một cách chặt chẽ thông qua di chuyển các nguồn lực [59, tr8].

Hội nhập bao gồm 5 cấp độ: Khu vực thương mại ưu đãi (có chính sách thuế quan ưu đãi một phần cho nhau); Khu vực thương mại tự do (các thành viên dỡ bỏ tất cả các hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với nhau); Liên minh thuế quan (các khu vực thương mại tự do mà các thành viên áp dụng chung chính sách thuế quan đối với các nước không phải thành viên); Thị trường chung (tự do hóa dòng hàng hóa và các yếu tố sản xuất) và Liên minh kinh tế (thị trường chung với các chính sách hài hòa cao kết hợp với các thể chế chung toàn khu vực để điều phối và thực hiện các biện pháp chính sách kinh tế và hội nhập.

Trong quá trình phát triển, bên cạnh hội nhập kinh tế toàn cầu và khu vực còn có xu thế hội nhập kinh tế tiểu vùng. Hội nhập tiểu vùng không mâu thuẫn với hội nhập kinh tế toàn cầu và khu vực mà đây thực chất là một khâu trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu và khu vực. Hội nhập tiểu vùng giúp bổ sung những gì còn thiếu, giúp giải quyết những gì mà hội nhập toàn cầu và khu vực chưa làm được.

Hội nhập toàn cầu và khu vực là xu thế hiện thực khách quan, là quá trình mà hầu hết các khu vực, tiểu khu vực và các quốc gia trên thế giới đều tham gia. Do vậy, các nước GMS nói chung và EWEC nói riêng cần phải chủ động hội nhập toàn cầu và khu vực nhằm tận dụng các cơ hội to lớn để phát triển.

1.1.2. Lý thuyết về lợi thế so sánh

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 206 trang tài liệu này.

Lợi thế so sánh là lợi thế có thể đạt được của mỗi nền kinh tế quốc gia thông qua sự phân công lao động quốc tế khi mà mỗi quốc gia biết lựa chọn mặt hàng có lợi ích nhiều hơn hoặc bất lợi ít hơn so với chi phí trung bình quốc tế để tập trung vào sản xuất, xuất khẩu hay nhập khẩu chúng. Trong trường hợp này, người ta so sánh mức chi phí ở từng quốc gia theo từng mặt hàng đối với mức chi phí trung bình quốc tế rồi sau đó so sánh các hệ số đó với nhau để tìm ra sản phẩm nào có lợi thế so sánh. Theo lý thuyết này, các quốc gia có thể chuyên môn hóa và xuất khẩu sản phẩm mà họ không có lợi thế tuyệt đối so với một nước khác, nhưng lại có lợi thế tuyệt đối hơn giữa hai sản phẩm và nhập khẩu những sản phẩm mà lợi thế tuyệt đối nhỏ hơn giữa hai sản phẩm trong nước [158, tr15].

Lý thuyết về lợi thế so sánh là lý thuyết đặc biệt quan trọng với các nước EWEC. Các nước này tuy có những nét tương đồng song cũng có nhiều nét đặc thù riêng về địa hình, đất đai, tài nguyên, điều kiện khí hậu, văn hóa, xã hội và lịch sử... do vậy, mỗi nước EWEC đều có những lợi thế so sánh riêng. Thực tế cho thấy, các nước EWEC là các nước nghèo nhưng có nhiều lợi thế so sánh như: nhân công rẻ, tài nguyên phong phú, chi phí sản xuất thấp, văn hóa đa dạng, lịch sử lâu đời, đa dạng sinh thái... Đó chính là những lợi thế so sánh mà các nước EWEC cần phát huy để phát triển kinh tế của mình. Hợp tác kinh tế EWEC có vai trò quan trọng tạo ra sự hợp tác sâu, rộng, đa dạng và cũng tạo ra thị trường rộng lớn hơn, ít rào cản hơn, điều kiện tốt cho sự phát triển của các nước dọc theo EWEC.

Các nước EWEC muốn tối đa hóa hiệu quả hợp tác EWEC thì phải vận dụng cơ sở của lý thuyết này để phát huy lợi thế so sánh của chính mình và của EWEC trong sản xuất, kinh doanh, thương mại và đầu tư góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội cho từng nước và cho cả EWEC.

1.1.3. Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh của quốc gia

Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh của quốc gia của Michael E. Porter là một lý thuyết mới về lợi thế cạnh tranh quốc gia.Lý thuyết chứa đựng quan điểm mới về lợi thế cạnh tranh quốc gia, giúp giải thích tại sao nhiều quốc gia thành công, nhiều công ty thành công trong một số ngành của nền kinh tế. Quan niệm và ý tưởng của lý thuyết này có thể áp dụng cho các đơn vị, tổ chức hay lãnh thổ trong một quốc

gia. Lý thuyết này nhấn mạnh Chính sách của Chính phủ ở cấp quốc gia hay ở cấp địa phương chiếm vai trò quan trọng trong việc hình thành lợi thế của quốc gia đó [59, tr13]. Các nước GMS nói chung và EWEC nói riêng phải vận dụng lý thuyết này để hình thành các chính sách nâng cao lợi thế cạnh tranh của công ty, của quốc gia và của cả EWEC hoặc GMS.

1.1.4. Thuyết tự do thương mại

Nội dung chính của lý thuyết này đề cập tới ý tưởng: Để cho thị trường vận hành theo cơ chế cạnh tranh tự do, nhà nước không can thiệp và có như vậy nền kinh tế mới có hiệu quả thực sự. Thương mại quốc tế được hoạt động trong một hệ thống thương mại tự do không có hàng rào thuế quan, mỗi nước sẽ dành vốn và nguồn lực của mình vào việc sản xuất những mặt hàng có lợi thế hơn so với các nước khác. Điều này sẽ có lợi cho tất cả các quốc gia và sản xuất liên kết các nền kinh tế quốc gia với nhau dựa trên cơ sở phân công lao động và chuyên môn hoá [59, tr14]. Các nước GMS nói chung và EWEC nói riêng phải vận dụng lý thuyết này để hình thành các chính sách giảm bớt rào cản, tăng cường tự do hóa thương mại, thúc đẩy tăng trưởng, huy động vốn, công nghệ và kỹ thuật từ bên ngoài để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của các nước thành viên.

1.1.5. Thuyết bảo hộ mậu dịch

Thuyết bảo hộ mậu dịch chủ trương nhà nước áp dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu để bảo vệ thị trường trong nước và hạn chế sự cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài nhằm hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của các ngành sản xuất trong nước. Bảo hộ mậu dịch là kết quả của sự phát triển không đồng đều của nền kinh tế giữa các nước, của sự cạnh tranh trên thị trường và quốc tế ngày càng gay gắt và việc nhà nước can thiệp vào kinh tế. Thuyết bảo hộ mậu dịch là cơ sở tư tưởng cho chính sách kinh tế mà nhiều nước đã và đang áp dụng. Ngay cả với các nước công nghiệp phát triển, lý thuyết này vẫn được vận dụng cùng với việc đặt ra hàng rào bảo hộ, các biện pháp thuế quan, phi thuế quan rất tinh vi [59, tr15]. Các nước GMS nói chung và EWEC nói riêng phải vận dụng lý thuyết này để hình thành các chính sách bảo hộ lợi ích hợp lý của các nước thành viên khi bản thân các nền kinh tế này còn nghèo nàn, lạc hậu và dễ bị các nước phát triển gây áp lực trong cạnh tranh không cân sức giữa các nước nghèo với các nước giàu.

1.1.6. Khái niệm “hành lang kinh tế”

Để hiểu khái niệm hành lang kinh tế Đông Tây, trước hết chúng ta phải hiểu khái niệm “hành lang kinh tế”.

Khái niệm hành lang kinh tế không phải là khái niệm mới trên thế giới. Trước khi Ngân hàng phát triển Châu Á đưa ra khái niệm này như là một sáng kiến để thúc đẩy hợp tác kinh tế ở tiểu vùng sông Mê Công mở rộng, người ta đã biết đến nhiều hành lang kinh tế ở Mỹ, Châu Âu, Châu Phi... như là một cách tiếp cận phát triển ở những khu vực địa lý liền kề, lấy các trục tuyến giao thông làm cơ sở để kết nối các vùng nhằm xây dựng các khuôn khổ hợp tác về phát triển kinh tế - xã hội. Ví dụ, theo hệ thống phát triển đường cao tốc Appalachian ở West Virginia (Mỹ) người ta xây dựng 26 hành lang kinh tế của khu vực Appalachian [143, tr3].

Để hiểu khái niệm hành lang kinh tế cần hiểu sơ qua các cơ chế hợp tác khu vực. Có hai cơ chế hợp tác kinh tế khu vực chủ yếu: chính thức và không chính thức. Cơ chế chính thức bao gồm các hình thức như Khu vực mậu dịch tự do (AFTA), Liên minh thuế quan (kiểu liên minh Nga - Belarus...), Thị trường chung (kiểu EU). Cơ chế phi chính thức gồm các hình thức như Tam giác phát triển, Khu vực tự do xuyên quốc gia, hành lang kinh tế. Trong đó cơ chế không chính thức có một số đặc thù như chỉ bao gồm các vùng (địa phương) thuộc các nước khác nhau chứ không bao gồm thực thể quốc gia; các thành viên duy trì quan hệ thương mại và đầu tư với thị trường bên ngoài khu vực; không có những chính sách chung đồng nhất, nhưng gián tiếp cắt giảm các biện pháp thuế quan và phi thuế quan tạo điều kiện thuận lợi cho sự tự do hoá thương mại, đầu tư, giao thông, nhập cư; thúc đẩy sự phát triển tại khu vực biên giới của các nước thành viên...

Ở khu vực Tiểu vùng sông Mekong mở rộng, khái niệm hành lang kinh tế được đưa ra lần đầu tiên tại Hội nghị lần thứ VIII các Bộ trưởng GMS tổ chức tại trụ sở ADB, Manila tháng 10/1998. Trong năm hành lang được đưa ra tại Hội nghị, Hành lang kinh tế Đông Tây (EWEC) được thống nhất ưu tiên thực hiện đầu tiên.

Hành lang kinh tế là những không gian địa lý xuyên qua ranh giới quốc gia và là nơi mà sản xuất và các hoạt động buôn bán cùng đổ về dọc theo những tuyến đường giao thông được xác định rõ. Hành lang kinh tế ngoài những đặc điểm tương tự với các hình thức hợp tác kinh tế phi chính thức khác còn có 3 điểm khác biệt.

Thứ nhất, hành lang là một khu vực địa lý xác định. Thứ hai, hành lang kinh tế nhấn mạnh các sáng kiến song phương hơn là các sáng kiến đa phương. Thứ ba, hành lang kinh tế đòi hỏi phải có sự quy hoạch không gian và vật lý cụ thể để tập trung phát triển hạ tầng và đạt được những hiệu quả thiết thực nhất.

1.2. Khái niệm “Hành lang kinh tế Đông Tây”

Hành lang Đông Tây là chương trình hợp tác phát triển tổng thể nhằm mục tiêu phát triển liên vùng nghèo bao gồm lãnh thổ lớn kéo dài từ miền Trung Việt Nam lên Trung Hạ Lào, Đông Bắc Thái Lan và đến tận Myanmar [149, tr4].

Hành lang kinh tế Đông Tây là tuyến hành lang dài 1450 km, đi qua 4 nước, bắt đầu từ thành phố cảng Mawlamyine (bang Mon) đến cửa khẩu Myawaddy (bang Kayin) ở biên giới Myanmar - Thái Lan. Ở Thái Lan, bắt đầu từ Mae Sot, chạy qua 7 tỉnh: Tak, Sukhothai, Kalasin, Phitsanulok, Khon Kaen, Yasothon và Mukdahan. Ở Lào, chạy từ tỉnh Savannakhet đến cửa khẩu Dansavanh và ở Việt Nam, chạy từ cửa khẩu Lao Bảo qua các tỉnh thành Quảng Trị, Huế và Đà Nẵng. Hành lang kinh tế Đông Tây được thể hiện ở hình 1 dưới đây:

Hình 1 1 Hành lang kinh tế Đông Tây Nguồn Asian Development Bank 2010 Strategy and 1

Hình 1.1: Hành lang kinh tế Đông Tây

Nguồn: Asian Development Bank (2010), Strategy and Action Plan for the Greater Mekong Subregion East-West Economic Corridor, Mandaluyong City, Philippines, tr15.

Sự ra đời của EWEC mang lại lợi ích thiết thực và lâu dài cho các quốc gia khu vực GMS gồm: Lào, Thái Lan, Myanmar và Việt Nam nhằm tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế, thúc đẩy giao lưu thương mại, đầu tư và phát triển, tạo thuận lợi cho hàng hoá của Lào, Thái Lan và Trung Quốc thâm nhập các thị trường đầy tiềm năng khu vực Nam Á và Tây Á; giảm chi phí lưu thông, đáp ứng yêu cầu hiệu quả trong lưu thông; hỗ trợ phát triển công - nông nghiệp và du lịch; góp phần giảm

nghèo, phát triển khu vực dọc biên giới và các vùng nông thôn, tăng thu nhập và giải quyết việc làm; tiếp cận các nguồn tài nguyên khoáng sản, hải sản và năng lượng phục vụ cho các ngành sản xuất và chế biến; phát triển các hoạt động kinh tế mới thông qua việc sử dụng hiệu quả không gian kinh tế và hình thành khu vực kinh tế xuyên quốc gia. Tăng cường sự tham gia tư nhân vào việc phát triển và củng cố tính cạnh tranh của thành phần kinh tế tư nhân [122, tr10].

Hành lang kinh tế Đông Tây đa dạng về địa hình, khí hậu, có đồng bằng ven biển Mawlamyine (Myanmar), miền đất thấp và nhiều đồi núi phía nam Bắc Thái Lan, vùng đồng bằng ẩm ướt, rừng và cây bụi Savannakhet và vùng đồi núi trung du miền Trung Việt Nam. Hoạt động thương mại của hành lang này tập trung vào 6 thành phố lớn: Mawlamyine, Phitsanulok, Khon Kaen, Savannakhet, Huế, Đà Nẵng và một số thành phố nhỏ khác. Đồng thời, hành lang Đông Tây còn giao với một số tuyến đường huyết mạch Bắc - Nam như: Yangon - Dawei, Chiang Mai - Bangkok, Đường 13 (Lào) và Quốc lộ 1A (Việt Nam), có điều kiện thuận lợi để phát triển thương mại theo hướng bắc hoặc hướng nam đến các trung tâm thương mại lớn như Bangkok, thành phố Hồ Chí Minh. Các địa phương dọc hành lang đa số đều tương đối nghèo, chậm phát triển, đông dân cư và xa cách về mặt địa lý. Nông nghiệp đóng vai trò quan trọng, sự phát triển của công nghiệp còn hạn chế.

1.3. Bối cảnh quốc tế và khu vực

Trong những thập niên cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, bối cảnh thế giới đã có những biến đổi to lớn và sâu sắc. Nó đã ảnh hưởng toàn diện và mạnh mẽ đến mọi mặt đời sống xã hội của các quốc gia. Thế giới đang từng bước thực hiện sự chuyển mình mới. Những biến đổi to lớn trong đời sống chính trị thế giới đã làm thay đổi cơ bản cục diện thế giới.

Vào năm 1991, Liên Xô và toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, kéo theo đó là trật tự hai cực Ianta tan vỡ; tình trạng đối đầu Đông - Tây, mà đứng đầu là Liên Xô và Mỹ, kéo dài hơn 4 thập kỷ đã đến hồi kết thúc. Một trật tự thế giới mới bắt đầu hình thành. Mỹ siêu cường duy nhất còn tồn tại sau Chiến tranh lạnh muốn vươn lên nắm lấy địa vị độc tôn, các cường quốc khác như Trung Quốc, Nhật Bản, Nga và các nước Tây Âu muốn duy trì thế giới “đa cực” trong quan hệ quốc tế nên ngày càng phát triển và vươn lên cạnh tranh với Mỹ, trong đó đáng chú ý nhất là

con hổ” Trung Quốc. Thế giới được tạo thành thế giới “nhất siêu đa cường” trên bản đồ kinh tế - chính trị thế giới và cũng tạo ra những thách thức không nhỏ đối với Mỹ. Trong khi đó, những nước đang phát triển đã và đang tạo ra sức mạnh góp phần ngày càng quan trọng vào cục diện quan hệ quốc tế. Do đó, tất cả các nước đã nhận thấy được trong giai đoạn mới đối đầu không phải là cách tốt nhất. Để thế giới tồn tại được tất cả các nước phải vận động theo quy luật nhất định. Guồng quay của trật tự thế giới mới đã đưa các nước xích lại gần nhau hơn và điều tất yếu xảy ra là xu thế hòa bình, hòa dịu và hợp tác đã mở ra nhưng cạnh tranh cùng phát triển. Song hành với sự biến đổi đó là xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, làm cho sự tùy thuộc vào các nước ngày càng lớn. Đồng thời, sự đi lên của những xu hướng đó là sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã làm cho ranh giới quốc gia mất dần ý nghĩa và tạo cơ sở cho sự ra đời của một “ngôi làng toàn cầu”, trong đó khu vực đóng vai trò là “ngôi nhà lớn” trong ngôi làng ấy. Những điều kiện ấy làm cho đời sống kinh tế - chính trị và xã hội quốc tế mang những sắc thái mới.

Thế kỷ 21 đang mở ra những cơ hội to lớn nhưng cũng chứa đựng rất nhiều thách thức đối với sự phát triển của tất cả các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Các nước này mong muốn có một môi trường hoà bình, hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới tạo điều kiện để phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực phát triển nền kinh tế của mình tiến kịp với sự phát triển chung của nhân loại.

Trong thời đại ngày nay, khi mà các yếu tố của sản xuất đã được quốc tế hóa một cách sâu sắc, không một quốc gia nào có thể đạt được tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao nhằm rút ngắn khoảng cách phát triển nếu không tham gia vào quá trình này, nhất là toàn cầu hóa luôn gắn với cải cách cơ cấu kinh tế của từng nước dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu giữa các nước. Ðiều đó giải thích tại sao Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) - định chế cơ bản của toàn cầu hóa đã thu hút hơn 150 nền kinh tế thành viên tham gia, mọi thành viên của WTO được yêu cầu phải cấp cho những thành viên khác những ưu đãi nhất định trong thương mại. Các nước chưa phải là thành viên cũng đang khẩn trương đàm phán để được gia nhập tổ chức này.

Quá trình toàn cầu hóa hiện nay là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế thế giới mới bảo đảm phân phối lợi ích công bằng hơn,

hợp lý hơn. Toàn cầu hóa là kết quả vượt bậc của lực lượng sản xuất, tạo nên những dòng chảy vốn, hàng hóa, dịch vụ, lao động, công nghệ ngày càng tự do trong phạm vi khu vực và toàn cầu, hỗ trợ mọi quốc gia tham gia toàn cầu hóa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội một cách nhanh chóng hơn. Toàn cầu hóa còn tạo lợi thế so sánh cho các quốc gia tích cực tham gia hội nhập quốc tế, đặc biệt là đối với lĩnh vực kinh tế. Sự phân công lao động quốc tế theo chiều sâu và thị trường liên kết khu vực và theo các tầng nấc khác nhau thích hợp với trình độ công nghệ, lao động, truyền thống của từng quốc gia. Phát huy tốt lợi thế so sánh trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế nhằm tận dụng tự do hóa thương mại, đầu tư, thị trường vốn, tranh thủ công nghệ và kỹ năng quản lý…

Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra những cơ hội mới và những thách thức mới. Những cơ hội là: Có một thị trường rộng lớn để có thể tiêu thụ sản phẩm được sản xuất ra trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thu hút vốn đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài, các nguồn viện trợ phát triển của các nước và các định chế tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)...; có điều kiện tiếp nhận công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý thông qua các dự án đầu tư.

Với nền kinh tế đã được toàn cầu hóa, sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng sâu, sự phối hợp giữa các nhà nước có vai trò ngày càng lớn, chức năng của nhà nước trong quan hệ kinh tế đối ngoại ngày càng được tăng cường.

Bên cạnh những tác động tích cực của quá trình toàn cầu hóa, trong những năm đầu thế kỷ XXI những mâu thuẫn về sắc tộc, mâu thuẫn về thương mại… hay các vụ khủng bố mang tầm quốc tế đã diễn ra tại nhiều khu vực. Chẳng hạn như vấn đề Trung Đông, vấn đề hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên, Iran, vấn đề xung đột sắc tộc tại châu Phi, vấn đề Biển Đông… Tất cả làm cho tình hình thế giới trở nên bất ổn định hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, tất cả các nước không thể khoanh tay đứng nhìn thế giới đứng trên bờ vực mà đã và đang cùng nhau đưa những vấn đề đó lên bàn đàm phán, cùng tìm kiếm giải pháp hòa bình.

Đặc biệt, sự kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001 hay còn được gọi là sự kiện 911 (theo lối viết tắt ngày tháng tại Mỹ), lực lượng khủng bố quốc tế tấn công vào Trung tâm thương mại quốc tế (WTC), Lầu Năm Góc và Tòa nhà Quốc Hội của Mỹ. Cuộc

Xem tất cả 206 trang.

Ngày đăng: 14/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí