Giải Pháp Phát Triển Mô Hình Bancassurance Tại Việt Nam


Việt Nam. Hình thức bảo hiểm này đã khá phổ biến ở các quốc gia, song còn khá mới mẻ ở Việt Nam mặc dù nó đã có mặt trong danh mục bảo hiểm mà Bộ Tài chính đã phê duyệt. Vì vậy các công ty bảo hiểm và ngân hàng cần tích cực triển khai mô hình Bancassurance trong loại hình bảo hiểm này hơn nữa.

Bảo hiểm đầu tư

Bảo hiểm đầu tư là loại hình bảo hiểm mà người đi vay có thể mua bảo hiểm ở các tổ chức bảo hiểm, dựa vào đó mà đi vay ở các tổ chức tín dụng. Bằng cách này, người đi vay sẽ giảm bớt được sự lo lắng, các tổ chức bảo hiểm thì thực hiện được nghiệp vụ bảo hiểm, còn các tổ chức tín dụng có thể kết hợp giữa cho vay và tín chấp, thế chấp hoặc cho vay bằng tài sản thế chấp.

Hiện nay, các sản phẩm bảo hiểm đầu tư đang thu hút sự quan tâm của khách hàng và đội ngũ đại lý bảo hiểm nhân thọ. Các sản phẩm bảo hiểm đầu tư, đặc biệt là sản phẩm liên kết chung sẽ tiếp tục đà tăng trưởng mạnh mẽ trong thời gian tới. Sự đón nhận nhiệt tình những dòng bảo hiểm mới từ khách hàng Việt Nam cũng nằm trong xu thế phát triển chung của thị trường bảo hiểm. Ở thị trường Việt Nam, theo sự phát triển của thị trường bảo hiểm nhân thọ, một số sản phẩm mang nặng tính chất tiết kiệm như Bảo hiểm hỗn hợp và Bảo hiểm sinh kỳ sẽ dần dần nhường chỗ cho những sản phẩm có tính bảo vệ và tính linh hoạt cao.

Vì thế, để theo kịp nhu cầu đang gia tăng của khách hàng, các công ty bảo hiểm đang đặc biệt quan tâm đến việc phát triển các sản phẩm bảo hiểm mới theo hướng gia tăng các quyền lợi bảo về và mang đến cho khách hàng nhiều lựa chọn khác nhau; đồng thời cũng phải tăng cường quảng bá các sản phẩm đó. Về phía ngân hàng thì cần khai thác tối đa các nội dung bảo hiểm có quan hệ đến đầu tư vốn. Như vậy, ngành bảo hiểm sẽ cạnh tranh trực tiếp với các quỹ đầu tư

qua việc khách hàng mua sản phẩm bảo hiểm, đóng tiền hàng tháng tới một mức


nhất định thì sẽ được quyền tham gia đầu tư. Khi đó các công ty bảo hiểm sẽ đưa ra một danh mục đầu tư để khách hàng lựa chọn.‌

Ngoài hai xu hướng chính đã nêu thì mô hình dịch vụ Bancassurance tại Việt Nam hiện nay có thể theo hướng các tổ chức, công ty trong lĩnh vực tài chính hoạt động theo hướng kinh doanh đa năng, tiến tới thành lập các tập đoàn tài chính; hoặc là các doanh nghiệp bảo hiểm sử dụng số tiền huy động để gửi tiết kiệm ngân hàng, mua trái phiếu, tín phiếu chính phủ…

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

II. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH BANCASSURANCE TẠI VIỆT NAM

1. Nhóm giải pháp vĩ mô – giải pháp về luật pháp và chính sách của nhà nước

Thực trạng vận dụng mô hình Bancassurane vào thị trường bảo hiểm Việt Nam - 12

1.1. Giải pháp nhằm hoàn thiện môi trường pháp lý

Hiện nay tại Việt Nam, mô hình Bancassurance vẫn còn khá mới mẻ và đang từng bước tiếp cận thị trường, vì vậy nhà nước cần xây dựng môi trường pháp lý hỗ trợ tích cực hơn cho hoạt động này.

- Hợp pháp hóa mô hình Bancassurance tại Việt Nam, cho phép mô hình được hoạt động hợp pháp, mở rộng danh mục sản phẩm bảo hiểm được phép bán qua ngân hàng.

- Hoàn thiện và nâng cao hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách, bộ máy quản lý của Nhà nước đối với dịch vụ bảo hiểm, đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới như hiện nay; cần có các văn bản pháp quy hoàn chỉnh, chặt chẽ nhằm hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại ngân hàng.

- Hoàn thiện các quy định về lãi suất kỹ thuật sử dụng trong định phí bảo hiểm. Theo quy định hiện hành, lãi suất kỹ thuật tối đa là 80% lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm. Tuy nhiên, đối với các sản phẩm bảo hiểm liên

kết với ngân hàng, do là sản phẩm liên kết nên không có yếu tố cạnh tranh, vì thế


lãi suất kỹ thuật của các sản phẩm này nên sử dụng lãi suất huy động của ngân hàng. Nếu kiến nghị này được thực thi thì phí bảo hiểm khách hàng phải trả sẽ thấp từ đó kích thích khách hàng tham gia, tạo điều kiện quảng bá và phát triển mô hình mới này.

- Hoàn thiện những quy định về đầu tư vốn tạo điều kiện cho các công ty bảo hiểm nâng cao hiệu quả đầu tư, giải pháp cơ bản để giảm phí.

- Có những chính sách ưu đãi đối với những người tham gia bảo hiểm và người được bảo hiểm như: cho phép khấu trừ phí bảo hiểm vào thu nhập chịu thuế khi xác định thuế thu nhập cá nhân, tạo đòn bẩy kinh tế kích thích người dân tham gia.

- Nhà nước cần có văn bản hướng dẫn chi tiết cho các doanh nghiệp bảo hiểm về đầu tư bất động sản, góp vốn vào các doanh nghiệp khác, mua cổ phiếu doanh nghiệp, cho vay và ủy thác đầu tư qua tổ chức tín dụng. Đồng thời, cần cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm thành lập ngân hàng thương mại, mua cổ phiếu, góp cổ phần vào ngân hàng thương mại và ngược lại ngân hàng thương mại được phép thành lập công ty bảo hiểm.

1.2. Các đề xuất cụ thể đối với hoạt động quản lý mô hình dịch vụ Bancassurance

Bổ sung quy định về các kênh phân phối mới trong đó có Bancassurance

Hiện nay kênh phân phối được điều chỉnh bởi Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành chỉ là kênh phân phối qua đại lý và môi giới bảo hiểm. Thực tế triển khai hoạt động bảo hiểm tại Việt Nam trong thời gian vừa qua đã hình thành và phát triển các kênh phân phối mới, trong đó có Bancassurance.


Sự lựa chọn mô hình Bancassurance phụ thuộc vào điều kiện và môi trường pháp lý tại nước triển khai. Không có mô hình thuần nhất nào phù hợp cho tất cả các quốc gia. Mô hình thỏa thuận hợp tác kinh doanh – coi ngân hàng là kênh phân phối của doanh nghiệp BHNT là phù hợp với Việt Nam ở thời điểm hiện tại vì Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2004 có quy định ngân hàng được cung cấp sản phẩm bảo hiểm. Về phía các quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành, vẫn cho phép ngân hàng làm đại lý tổ chức cho doanh nghiệp bảo hiểm.

Bổ sung quy định về cách thức bán và giới thiệu sản phẩm bảo hiểm của kênh Bancassurance

Quy định này nhằm phân định rõ cách thức bán và giới thiệu sản phẩm của từng kênh phân phối: đại lý, môi giới, Bancassurance, bán hàng tại điểm, bán hàng trực tiếp (direct marketing)… vì đặc điểm và trình độ lực lượng bán hàng của mỗi kênh phân phối rất khác nhau.

Dựa trên thực tế hiện nay ở Việt Nam, lực lượng bán hàng của kênh phân phối Bancassurance nên là đội ngũ nhân viên ngân hàng và chỉ bán qua các hệ thống các chi nhánh của ngân hàng. Quy định này nhằm đảm bảo sự không phân tán về lực lượng bán hàng của kênh phân phối này; thuận tiện trong công tác quản lý; đơn giản trong cơ chế chi trả hoa hồng… Dần dần, sau khoảng 3-5 năm, khi Bancassurance ở Việt Nam trở nên quen thuộc và phát triển hơn thì việc bổ sung quy định về lực lượng bán hàng (các chuyên gia tài chính, các đại lý của doanh nghiệp bảo hiểm, cộng tác viên của ngân hàng…) là cần thiết nhằm tăng cường lực lượng bán hàng, từ đó nâng cao kết quả kinh doanh của Bancassurance.

Quy định cụ thể về số lượng doanh nghiệp bảo hiểm mà một ngân

hàng được liên kết.


Trong hợp đồng hợp tác kinh doanh với doanh nghiệp bảo hiểm thì ngân hàng là đại lý tổ chức, vì vậy theo quy định hiện hành về kinh doanh bảo hiểm thì đại lý của doanh nghiệp bảo hiểm không được đồng thời làm đại lý tại hai doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau trừ trường hợp được sự đồng ý của doanh nghiệp bảo hiểm nơi đại lý làm việc. Vì vậy, nếu như tại bàn thỏa thuận hợp tác với doanh nghiệp bảo hiểm, nếu doanh nghiệp bảo hiểm đồng ý thì ngân hàng mới được ký bản thỏa thuận hợp tác để làm đại lý cho một doanh nghiệp bảo hiểm khác.

Tuy nhiên, để đảm bảo tính bảo mật thông tin, cũng như để đảm bảo ngân hàng quan tâm đến hoạt động của mô hình Bancassurance hơn, cần quy định trong thời gian đầu ngân hàng chỉ được làm đại lý cho một doanh nghiệp bảo hiểm, không cho phép trường hợp ngân hàng cùng một lúc làm đại lý cho nhiều doanh nghiệp bảo hiểm như tình trạng hiện nay (như VCB hiện đang làm đại lý bảo hiểm cho Prudential, AIG; Vietinbank làm đại lý bảo hiểm cho Bảo Việt Nhân thọ và AIG, Habubank làm đại lý bảo hiểm cho Bảo Việt nhân thọ và Prevoir…). Sau 3-5 năm kể từ khi ban hành quy định, có thể nghiên cứu quy định cho phép các ngân hàng và doanh nghiệp bảo hiểm được tự do liên kết trong hoạt động này.

Bổ sung quy định cơ chế chi trả hoa hồng riêng cho đại lý bảo hiểm tổ chức.

Cần phải bổ sung quy định cơ chế chi trả hoa hồng riêng cho hoạt động Bancassurance, chi tiết đối với từng loại hình sản phẩm bảo hiểm cá nhân và bảo hiểm nhóm mà quy định pháp luật cho phép triển khai của kênh phân phối này. Tỷ lệ hoa hồng của kênh phân phối này cần hấp dẫn hơn so với tỷ lệ hoa hồng bảo hiểm hiện tại quy định đối với đội ngũ đại lý và môi giới bảo hiểm.

Bổ sung quy định về chương trình đào tạo và cấp chứng chỉ đào tạo đại lý bảo hiểm đối với đội ngũ bán hàng của kênh Bancassurance.

Quy định hiện hành chỉ đưa ra chương trình đào tạo đối với các đại lý cá nhân. Còn đối với đại lý tổ chức chỉ quy định “các nhân viên tham gia trực tiếp vào hoạt động bán bảo hiểm của đại lý tổ chức phải được đào tạo và cấp chứng chỉ” nhưng lại không có quy định về chương trình đào tạo đối với lực lượng bán hàng này. Vì vậy, đề xuất nên có quy định riêng về chương trình đào tạo đối với các nhân viên ngân hàng – là nhân viên của đại lý tổ chức.

Ngoài ra các nhà làm luật cũng cần quan tâm đến các quy định về cơ chế chia sẻ thông tin giữa ngân hàng và doanh nghiệp bảo hiểm, chế độ báo cáo… nhằm bảo vệ thông tin của khách hàng tham gia bảo hiểm và kịp thời có biện pháp quản lý giám sát hiệu quả đối với hoạt động này.

2. Những giải pháp vi mô

2.1. Các giải pháp về nhận thức

2.1.1. Nhận thức của ngân hàng và công ty bảo hiểm về Bancassurance

Trước hết, cả ngân hàng và công ty bảo hiểm đều phải nhận thức được những lợi ích của Bancassurance. Đối với ngân hàng, vấn đề liên kết với các công ty bảo hiểm để phân phối sản phẩm bảo hiểm qua ngân hàng không chỉ là lợi ích có được từ hoa thồng do bán bảo hiểm mà việc kết hợp này là phương thức phòng chống rủi ro có hiệu quả cho ngân hàng và là bước đệm để các ngân hàng thâm nhập sâu hơn vào lĩnh vực hoạt động của các công ty bảo hiểm; từ đó tiến đến mức độ hợp tác sâu hơn là hình thành các tập đoàn tài chính ngân hàng

– bảo hiểm. Đối với công ty bảo hiểm thì đây thực sự là một kênh phân phối hiệu quả các sản phẩm bảo hiểm. Vì vậy, bản thân các ngân hàng và các công ty bảo

hiểm cần có sự cam kết mạnh mẽ hơn, đặc biệt là cam kết của các lãnh đạo cao


nhất. Tuy nhiên, các công ty bảo hiểm dường như tích cực hơn trong việc hợp tác với các ngân hàng còn các ngân hàng lại chưa tích cực tham gia trong thỏa thuận hợp tác, vì họ coi việc bán bảo hiểm qua ngân hàng chỉ gióng như việc ngân hàng giúp các công ty bảo hiểm bán hàng, và nghĩ rằng lợi nhuận thu được từ tiền hoa hồng bán hàng bảo hiểm là không đáng kể so với thu nhập từ những nghiệp vụ sẵn có của ngân hàng nên không đáng để đầu tư thời gian và công sức. Nếu cac ngân hàng và công ty bảo hiểm được quảng bá đầy đủ hơn về lợi ích mà Bancassurance mang lại thì việc thực hiện hiện liên kết ngân hàng – bảo hiểm thành công ở Việt Nam trong thời gian tới là hoàn toàn có thể. Bên cạnh đó, phải tổ chức tốt việc thực hiện thỏa thuận về Bancassurance trên thực tế và đầu tư thực tế vào công nghệ thông tin để phục vụ xây dựng, lưu trữ và khai thác cơ sở dữ liệu khách hàng.

Thứ hai, ngân hàng cần coi trọng nhiều hơn nữa tới đối tượng khách hàng cá nhân. Hiện nay, các ngân hàng Việt Nam vẫn chủ yếu tập trung vào các khách hàng doanh nghiệp. Khách hàng cá nhân chưa được coi trọng đúng mức, một phần cũng do đối tượng khách hàng này tham gia sử dụng các dịch vụ ngân hàng chưa nhiều, chưa trở thành một thị trường có khả năng sinh nhiều lợi nhuận cho các ngân hàng. Tuy nhiên, để phát triển việc bán các sản phẩm bảo hiểm qua ngân hàng, các ngân hàng lại đặc biệt cần quan tâm tới đối tượng khách hàng cá nhân vì đây mới là lượng khách hàng tiềm năng dồi dào hơn cả cho bảo hiểm.

Thứ ba, ngân hàng cần sẵn sàng chia sẻ thông tin hơn nữa. Một trong những ưu điểm của Bancassurance là công ty bảo hiểm có thể tận dụng được lượng thông tin phong phú, dồi dào về cơ sở khách hàng của ngân hàng. Nhưng thực tế hiện nay tại Việt Nam cho thấy các ngân hàng lại có xu hướng e ngại trong việc chia sẻ thông tin về khách hàng với người thứ ba, dẫn tới gây khó

khăn cho các công ty bảo hiểm trong việc khai thác thông tin để tìm ra cơ hội


bán bảo hiểm cho các khách hàng tiềm năng. Đồng thời, sự e ngại chia sẻ thông tin, số liệu về hoạt động của chính ngân hàng cũng ảnh hưởng đến sự hợp tác ngân hàng – bảo hiểm. Rõ ràng, để mô hình dịch vụ Bancassurance có thể ứng dụng thành công thì ngân hàng cần phải có sự cởi mở hơn nữa trong việc chia sẻ thông tin mà mình có.

2.1.2. Nhận thức của khách hàng về Bancassurance

Trình độ nhận thức cũng như sự tiếp cận của người dân về bảo hiểm và ngân hàng vẫn còn hạn chế, rất nhiều người chưa từng nghe tới cụm từ “ngân hàng – bảo hiểm”, những người biết về nó thực sự rất ít. Hiện nay, phần lớn dân chúng chưa có tài khoản ngân hàng, những người có tài khoản thì đa phần chưa có thói quen sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Đối với bảo hiểm, hầu hết người dân chưa có tập quán bảo hiểm, chưa chú trọng dến dịch vụ này; còn các công ty bảo hiểm cũng chưa tạo dựng được uy tín và hình ảnh tốt trong nhân dân. Một nguyên nhân phải kể đến là với nền kinh tế chưa mạnh, chất lượng cuộc sống cũng như chất lượng các dịch vụ xã hội chưa cao cũng làm hạn chế khả năng tiếp cận thông tin và công nghệ của người dân. Đối với các nước phát triển thì việc sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng và ngành bảo hiểm là điều hết sức phổ biến. Vì vậy, việc phổ biến tuyên truyền một cách cụ thể và rộng rãi cho người tiêu dùng nhận thức đầy đủ lợi ích của việc tham gia bảo hiểm cũng như việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng là vô cùng cần thiết; để từ đó có thể phát triển ngành ngân hàng và ngành bảo hiểm nói chung, và ứng dụng thành công mô hình Bancassurance nói riêng ở Việt Nam.

2.2. Giải pháp về chính sách hoạt động đối với ngân hàng và các công ty bảo hiểm.

2.2.1. Xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết cho mô hình Bancassurance

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 30/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí