2. Vài nét về thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển ở Việt Nam hiện nay.
Nền kinh tế Việt Nam cũng như trong khu vực, trong năm vừa qua đã có dấu hiệu phục hồi và phát triển tác động tích cực đối với toàn ngành bảo hiểm Việt Nam. Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã tăng cường bám sát khách hàng hơn, tích cực khai thác những khách hàng quen thuộc và những khoảng trống của thị trường. Trong thời gian qua trình độ của các nhân viên bảo hiểm Việt Nam đã được nâng lên rõ rệt qua nhiều khoá đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ở trong nước cũng như ở nước ngoài, bắt kịp với trình độ chung của khu vực và trên thế giới, do vậy việc tư vấn giúp đỡ khách hàng lựa chọn tham gia bảo hiểm cũng như khai thác dịch vụ đã thuận lợi hơn. Sự hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam có nhiều chuyển biến tích cực, vai trò của hiệp hội bảo hiểm Việt Nam đã được khẳng định. Việc tuyên truyền quảng cáo đã được các doanh nghiệp chú trọng hơn trước rất nhiều trong đó hình thức hội nghị khách hàng vẫn được đánh giá là hình thức tuyên truyền quảng cáo mang lại hiệu quả nhất. Thị trường đã có 10 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, một số doanh nghiệp đã tiến hành khai thác thêm các nghiệp vụ và tích cực triển khai các sản phẩm bảo hiểm mới (nghiệp vụ Bảo hiểm thiết bị điện tử, bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ doanh nghiệp...). Vì vậy, nên thị trường bảo hiểm Việt Nam trong thời gian vừa qua hoạt động tương đối đa dạng và sôi động. Tất cả các yếu tố trên đã tác động tích cực tới thị trường bảo hiểm Việt Nam: Tổng doanh thu phí bảo hiểm trên toàn thị trường đạt khoảng 2.934 tỷ VND, ước tính cả năm 2000 chiếm 0,66% GDP tăng 41,89% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức cao nhất trong những năm qua, trong đó tổng phí bảo hiểm phi nhân thọ đạt 1.827 tỷ VND tăng 14,69% so với năm 1999, các nghiệp vụ có tốc độ tăng trưởng mạnh như bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, cháy và rủi ro đặc biệt, thăm dò và khai thác dầu khí, xây dựng - lắp đặt, với mức tăng khoảng 15%-20% so với năm 1999. Tổng phí bảo hiểm nhân thọ đạt 1.117 tỷ VND tăng 230,78% so với năm 1999, hiện có năm công ty với trên 10.000 nhân viên và đại lý cùng với 40 loại hình nghiệp vụ khác nhau. Các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đều có doanh thu phí cao hơn năm trước, một số doanh nghiệp có mức tăng trưởng tương đối cao như Bảo Minh tăng 21,5%, PJICO tăng 21%, PTI tăng 57,8%...
Cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế, thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển trong năm 2000 đạt tốc độ tăng trưởng tương đối tốt so với năm 1998, 1999. Kim ngạch tham gia bảo hiểm của toàn thị trường tăng khoảng 85% trong khi phí bảo hiểm tăng gần 30% so với năm 1999 trong đó bảo hiểm hàng hoá nhập khẩu tăng 29,20%, bảo hiểm hàng
hoá xuất khẩu tăng 35,92%. Sự ra tăng kim ngạch bảo hiểm và phí bảo hiểm trong thời gian qua là do nhiều yếu tố như: Kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước tăng, chủ yếu ở các mặt hàng nhập khẩu như xăng dầu, sắt thép, máy móc thiết bị ... và xuất khẩu dầu thô, hàng dệt may, giầy dép, hải sản, chè... Trong khai thác bảo hiểm hàng hoá, sự cạnh tranh giữa các nhà bảo hiểm tuy diễn ra gắt nhưng các doanh nghiệp bảo hiểm đã nâng cao chất lượng dịch vụ về nhiều mặt nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu của khách hàng trong cả nước và phần nào đã tạo lòng tin trên thị trường nên kết quả thị phần kim ngạch xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm tăng đáng kể, cụ thể trong năm 2000 kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm đạt tỷ lệ gần 20% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của cả nước (tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá năm 2000 đạt 29,5 tỷ USD) cao hơn so với giai đoạn từ 1995-1998 bình quân chỉ chiếm gấn 14% tổng kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu hàng hoá.
Bảng 3: Bảo hiểm hàng hoá nhập khẩu toàn thị trường từ 1995-2000
Năm | 1995 | 1996 | 1997 | 1998 | 1999 | 2000 | |
1 | KN NK (Tr.USD) -Tốc độ tăng (%) | 8.155 - | 11.144 36,35 | 11.478 3,00 | 11.390 -0,77 | 11.500 0,97 | 15.200 32,17 |
2 | KN NK được BH (Tr.USD) -Tốc độ tăng(%) | 1.916 - | 2.370 23,71 | 2.132 -10,04 | 2.188 2,66 | 2.200 5,10 | 4.362 98,27 |
3 | Tỷ lệ kim ngạch NK được BH (%) | 23,48 | 21,26 | 18,57 | 19,21 | 19,13 | 28,70 |
4 | DTphí BH(1000$) -Tốc độ tăng(%) | 7.048,48 - | 8.874,84 25,91 | 7.108,89 -19,90 | 7.874,03 10,76 | 8.500 7,95 | 10.892 29,20 |
5 | KN NK không được BH tại VN (Tr.USD) -Tỷ lệ (%) | 6.239 76,52 | 8.774 78,74 | 9.346 81,43 | 9.202 80,79 | 9.300 80,87 | 10.838 71,30 |
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex - 2
- Hợp Đồng Bảo Hiểm Hàng Hoá Xuất Nhập Khẩu Vận Chuyển Bằng
- Khái Quát Về Pjico Và Thị Trường Bảo Hiểm Hàng Hoá Xuất Nhập Khẩu Vận Chuyển Bằng Đường Biển Ở Việt Nam
- Bảng Chỉ Tiêu Đánh Giá Kết Quả Hoạt Động Khai Thác Bảo Hiểm Hàng Hoá Xuất Nhập Khẩu Vận Chuyển Bằng Đường Biển Ở Pjico Từ 1995-2000.
- Quy Trình Giám Định Hàng Hoá Xuất Nhập Khẩu Vận Chuyển Bằng Đường Biển Ở Pjico.
- Chi Phí Giám Định Hàng Hoá Xuất Nhập Khẩu Vận Chuyển Bằng
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
Nguồn số liệu: Báo cáo tổng kết BHHH toàn thị trường - VINARE
Bảng 4: Bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu toàn thị trường từ 1995-2000
Năm | 1995 | 1996 | 1997 | 1998 | 1999 | 2000 | |
1 | KN XK(Tr.USD) -Tốc độ tăng(%) | 5.449 - | 7.256 33,16 | 9.145 26,.03 | 9.361 2,36 | 11.250 20,18 | 14.300 27,11 |
2 | KN XK được BH (Tr.USD) -Tốc độ tăng(%) | 178.97 - | 220.68 23,71 | 271.82 23,17 | 357.50 31,52 | 528.75 47,91 | 909.45 72 |
3 | Tỷ lệ kim ngạch XK được BH (%) | 3,28 | 3,04 | 2,97 | 3,82 | 4,7 | 6,36 |
4 | DT phíBH(1000$) -Tốc độ tăng(%) | 905.39 - | 1.323,65 46,20 | 1.527,61 14,41 | 2.668,06 74,66 | 3.034,65 13,74 | 4.124,7 35,92 |
5 | KNXK không được BH tại VN (Tr.USD) -Tỷ lệ (%) | 5.270,03 96,72 | 7.035,32 96,96 | 8.873,18 97,03 | 9.003,5 96,18 | 10.721,25 95,3 | 13.390,5 93,64 |
Nguồn số liệu: Báo cáo tổng kết BHHH toàn thị trường - VINARE
Từ bảng số liệu ta thấy, tỷ lệ kim ngạch hàng hoá tham gia bảo hiểm tăng cao hơn so với tốc độ tăng trưởng về phí bảo hiểm do nhiều yếu tố ảnh hưởng như: cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu, sự lựa chọn điều kiện bảo hiểm của khách hàng để bảo hiểm hàng hoá của mình, sự cạnh tranh của các công ty bảo hiểm...ví dụ: Trong 6 tháng đầu năm 2000 kim ngạch nhập khẩu xăng dầu là rất lớn chiếm tỷ trọng 13,25% tổng kim ngạch nhập khẩu (do giá xăng dầu thế giới tăng cao), với mặt hàng này thường chỉ bảo hiểm theo điều kiện (điều khoản) chở dầu dời, một vài doanh nghiệp còn bảo hiểm rủi ro thiếu hụt nhưng tỷ lệ phí bảo hiểm áp dụng rất thấp trung bình chỉ khoảng 0,09% hay gạo xuất đi Phillipin tỷ lệ phí bảo hiểm chỉ bằng 50% phí đi Iraq...
Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu là một trong những nghiệp vụ truyền thống của hầu hết các công ty kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Hiện nay với sự tham gia kinh doanh nghiệp vụ này của mười công ty làm cho quá trình cạnh tranh diễn ra hết sức sôi động và gay gắt. Hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường không những giảm mạnh mà các công ty còn không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ cho khách hàng, với vai trò là người tư vấn và là nhà bảo hiểm cho khách hàng tham gia bảo hiểm. Hầu hết các công ty bảo hiểm hiện nay đều rất coi trọng việc giữ lại số lượng khách hàng tham gia bảo hiểm cũ thông qua tái tục hợp đồng hàng năm
đồng thời tích cực chủ động tìm kiếm và khai thác khách hàng mới trong mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế. Trình độ, năng lực nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên bảo hiểm ngày một nâng cao giúp cho quá trình tư vấn, phân tích đánh giá rủi ro, đưa ra các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất có hiệu quả. Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu thường bảo hiểm lô hàng hoá có giá trị rất lớn vì vậy việc tái bảo hiểm là vô cùng quan trọng. Gần đây các công ty kinh doanh nghiệp vụ này đã phân tích đúc rút kinh nghiệm trong công tác tính toán mức giữ lại và nhượng tái hợp lý. Họ đã chọn ra được thị trường tái bảo hiểm và các nhà nhận tái bảo hiểm có uy tín trên thế giới như: Munich Re, Swiss Re hay một số thị trường tái bảo hiểm của Nhật Bản và London. Do vậy uy tín các công ty bảo hiểm gốc của Việt Nam ngày càng tăng và tạo được sự tín nhiệm, tin cậy của khách hàng tham gia bảo hiểm.
Tuy nhiên, tình hình cạnh tranh vẫn diễn ra rất quyết liệt, nguồn dịch vụ từ các khách hàng là đối tác xuất nhập khẩu của các tổng công ty và các công ty lớn vẫn là những "điểm nóng" cho dù trong qúa trình khai thác hay tái tục hợp đồng, các doanh nghiệp bảo hiểm vẫn đang phải chịu những sức ép về nhiều khía cạnh từ phía khách hàng như: yêu cầu giảm tỷ lệ phí, hạ mức khấu trừ, mở rộng phạm vi bảo hiểm ngoài thông lệ, áp dụng các mẫu đơn khác với tập quán thị trường hoặc đưa thêm nhiều điều khoản bổ sung, thậm chí có những điều khoản rủi ro bảo hiểm có thể thuộc vào một đơn bảo hiểm hoàn toàn riêng biệt cho loại hình bảo hiểm khác... Có những trường hợp dịch vụ được tái tục nhưng có nhiều doanh nghiệp bảo hiểm cùng mời chào với các bảng chào phí khác nhau gây ra khó khăn chung cho toàn bộ thị trường và sự lựa chọn của khách hàng. Một số dịch vụ khi tái tục đã thay đổi người bảo hiểm còn một số dịch vụ lại được khách hàng lựa chọn theo phương thức đồng bảo hiểm nhằm tận dụng ưu thế của tính cạnh tranh và phần lớn là mua bảo hiểm của các công ty bảo hiểm nước ngoài. Từ bảng số liệu ta thấy, hàng hoá nhập khẩu do các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam khai thác được chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, bình quân từ 1995-2000 khoảng 21,7% tổng kim ngạch hàng năm, lượng hàng hoá chủ yếu tham gia bảo hiểm tại nước ngoài. Nếu chỉ tính phí bảo hiểm bình quân theo kim ngạch bảo hiểm tại Việt Nam các năm qua và nếu 100% tổng kim ngạch nhập khẩu được bảo hiểm thì trong 6 năm từ năm 1995-2000 phí bảo hiểm hàng nhập rơi vào tay các nhà bảo hiểm nước ngoài khoảng 200 triệu USD, bình quân 33,3 triệu USD/năm. Tương tự như trên ta thấy giá trị kim ngạch hàng hoá xuất khẩu đựơc bảo hiểm tại Việt Nam còn quá nhỏ bé, bình quân giai đoạn 1995-2000 khoảng 4,03% tổng kim ngạch hàng năm- số còn lại 95,97% hay bình quân 9,08% tỷ USD kim ngạch xuất khẩu hàng năm được bảo hiểm ở nước ngoài với số phí bảo hiểm khoảng 35-40 triệu USD/ năm. Những hạn chế trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của ngành và sự đóng góp của ngành đối với Ngân sách Nhà
nước bởi vì phí bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu thất thu bình quân là khoảng 70 triệu USD năm dẫn đến làm thất thu thuế đối với nhà nước gần 2,8 triệu USD/ năm đồng thời mất nguồn chi quản lý, dự trữ bồi thường khoảng 14 triệu USD và mất đi nguồn vốn đầu tư lớn từ các doanh nghiệp bảo hiểm cho nền kinh tế xã hội.
Bảng 5: Tình hình bồi thường nghiệp vụ BHHHXNK của các DNBHVN
Đơn vị: 1.000 USD
Tổng STBH | Tổng phí bảo hiểm | Tỷ lệ phí bình quân(%) | Bồi thường | Tỷ lệ bồi thường (%) | |||
Đã trả | Ước | Cộng | |||||
1995 | 2.094.970 | 7.953,87 | 0,379 | 3.806,3 | 793,4 | 4.599,7 | 57,83 |
1996 | 2.590.680 | 10.198,49 | 0,394 | 8.172 | 1.654,3 | 9.826,3 | 96,35 |
1997 | 2.403.820 | 8.636,5 | 0,359 | 4.985,2 | 545,6 | 5.530,8 | 64,06 |
1998 | 2.545.500 | 10.542,09 | 0,414 | 5.298,4 | 2.526,3 | 7.824,7 | 74,35 |
1999 | 2.728.750 | 11.534,65 | 0,423 | 7.129 | 4.281,1 | 11.410,1 | 89,92 |
2000 | 5.271.450 | 15.106,7 | 0,287 | 2.476,2 | 8.071,2 | 10.538,4 | 69,76 |
Cộng | 17.635.170 | 63.972,3 | 0,376 | 31.858,1 | 17.871,9 | 49.730 | 77,74 |
Nguồn : Báo cáo tổng kết BHHH toàn thị trường của VINARE
= | Tổng số tiền bồi thường |
Tổng phí bảo hiểm |
Tình hình tổn thất hàng hoá được bảo hiểm vẫn tiếp tục gia tăng mặc dù các nhà bảo hiểm gốc luôn luôn áp dụng nhiều biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất. Tỷ lệ bồi thường trung bình giai đoạn 1995-2000 theo năm nghiệp vụ lên tới 77,79% riêng năm 1999 xấp xỉ 90% và ngay trong 6 tháng đầu năm 2000 đã liên tiếp xảy ra những vụ tổn thất rất lớn cho hàng hoá như: tổn thất chung của tàu “APEX” trên hành trình từ BOTANG về TP. HCM tháng 04/2000 bị hỏng máy
trị giá khoảng 700.000 USD, hàng hoá trên tàu “EVELYN” bị đắm tàu tại lưu vực Aden ngày 19/05/2000 trên hành trình từ cảng Novorossiysk (Biển đen) về cảng TP. HCM trị giá khoảng 1 triệu USD, tổn thất trên tàu “HAIRONG” bị đắm tại Trung quốc ngày 12/06/2000 do đâm va với tàu “JOINT MIRIAN” trên hành trình từ Trung Quốc về TP. HCM trị giá khoảng 1.018.375 triệu USD. Với ba vụ tổn thất trên ước tính tổng số tình đó có thể phải bồi thường đã chiếm 40%-45% phí bảo hiểm khai thác được trong 6 tháng đầu năm 2000. Mặt khác, những tổn thất thường xuyên xảy ra đối với hàng hoá được bảo hiểm thông thường chiếm khoảng 30%-35% phí bảo hiểm, như vậy kết quả kinh doanh về nghiệp vụ thời gian qua của toàn bộ thị trường không mấy khả quan. Tỷ lệ bồi thường về tổn thất hàng hoá luôn luôn ở mức cao chủ yếu do ảnh hưởng của các vụ tổn thất lớn như tàu chở hàng bị cháy, mắc cạn, đâm va, mất tích... Nếu như các nhà bảo hiểm gốc vẫn tiếp tục không có những biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất chặt chẽ hơn nữa trong khâu khai thác (đánh giá và phân tích rủi ro) trong thời gian tới thì kết quả kinh doanh nghiệp vụ rất khó có thể được nâng lên. Bước sang năm 2001 để kết quả kinh doanh nghiệp vụ đạt hiệu quả tốt các doanh nghiệp cần dùng mọi biện pháp ngăn ngừa tổn thất hàng hoá và tăng cường khai thác thêm dịch vụ. Dự kiến phí bảo hiểm hàng hoá của thị trường năm 2001 tăng khoảng 15%-20% so với năm 2000.
II. THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN Ở CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM PTROLIMEX (PJICO)
1. Công tác khai thác bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển ở PJICO.
Hoạt động khai thác là một khâu quan trọng trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung và lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển nói riêng. Tuy còn nhiều hạn chế so với các công ty bảo hiểm nước ngoài và một số doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam rất lớn mạnh như Bảo Việt, Bảo Minh nhưng công ty bảo hiểm PJICO trong thời gian qua đã nỗ lực cố gắng vượt qua những khó khăn trong điều kiện hầu hết các mối quan hệ với khách hàng mới được thiết lập và còn ít ngoài sự ủng hộ nhiệt tình của các khách hàng trong cổ đông. Các khách hàng lớn và lâu năm còn chưa có hoặc nếu có thì chỉ nhận được bảo hiểm phần nào trong tổng giá trị hàng hoá trong ngoại thương. Việc xây dựng và phát triển một thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu ổn định, lâu dài chính là mục tiêu được đặt ra trong hoạt động khai thác của PJICO. Hoạt động khai thác phải có kế hoạch, chiến lược hết sức cụ thể và chặt chẽ. Nó phải được dựa trên cơ sở các số liệu, chỉ tiêu về kim ngạch xuất
nhập khẩu của các mặt hàng cũng như kế hoạch xuất nhập khẩu của từng đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. Đối với khách hàng cũ, công ty luôn luôn phải đảm bảo giữ uy tín, thuyết phục tái tục hợp đồng hướng dẫn mua bảo hiểm đúng thời hạn và bảo hiểm hàng nhập theo gía FOB, CF hay kim ngạch hàng xuất theo giá CIF. Các khách hàng cũ mà có ít rủi ro xảy ra tổn thất, tăng cường các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất thì PJICO có thể điều chỉnh lại tỷ lệ phí cho phù hợp nhằm thiết lập mối quan hệ lâu dài với họ. Đối với khách hàng tiềm năng PJICO sẽ có các phương pháp chào phí riêng dưới nhiều hình thức nhằm khuyến khích, thu hút họ tham gia bảo hiểm tại công ty. Ngoài ra chất lượng phục vụ khách hàng và chất lượng quản lý cũng được PJICO không ngừng nâng cao làm tăng thêm uy tín của mình với thị trường bảo hiểm trong nước. Công tác nghiên cứu thị trường, mở rộng và phát triển đại lý, cộng tác viên cũng được chú trọng nhằm nắm bắt đựơc các thông tin từ khách hàng, từ thị trường, từ đó có kế hoạch khai thác một cách hiệu quả và triệt để.
Quy trình khai thác bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của PJICO - ban hành kèm theo quyết định của Tổng giám đốc PJICO số 113/BH-HH/95 ngày 15/07/1995 bao gồm 2 khâu cơ bản.
- Một là : Quá trình khai thác bảo hiểm.
- Hai là : Quá trình cấp đơn bảo hiểm.
1.1. Quá trình khai thác bảo hiểm: Quá trình khai thác được chia ra làm 2 bước:
Bước 1: Xây dựng kế hoạch thu phí và ký kết hợp đồng với khách hàng: Trước hết là phải nắm vững kim ngạch các mặt hàng và số lượng hàng hoá nhập khẩu hàng năm từ các nguồn vốn xuất nhập khẩu của các đơn vị xuất nhập khẩu (nguồn vốn trung ương, địa phương, viện trợ, tự có, vay nợ ...) để xây dựng kế hoạch thu phí trong năm, cụ thể là đầu năm thông qua các đơn vị xuất nhập khẩu để nắm số liệu kế hoạch xuất nhập khẩu của từng đơn vị. Trên cơ sở đó xác định số kim ngạch sẽ qua bảo hiểm để xây dựng kế hoach thu phí bảo hiểm trong năm đó của từng kkhách hàng theo mặt hàng. Trong số kim ngạch xuất khẩu của khách hàng cần tách riêng kim ngạch của từng khu vực theo giá CIF, CF và FOB để lập kế hoạch thu phí sát với thực tế. Sau đó chuẩn bị hợp đồng bảo hiểm để ký kết với khách hàng hàng năm.
Bước 2: Theo dõi tình hình thực hiện kế hoạch: Từng quý có số liệu hàng nhập về của từng khách hàng qua đó đối chiếu kim ngạch qua bảo hiểm để nắm được khối lượng hàng về thực tế nhằm kịp thời điều chỉnh kế hoạch thu phí đầu năm đã xây dựng. Đôn đốc khách hàng mua bảo hiểm theo đúng thời hạn đã quy định và mua bảo hiểm hết phần kim ngạch hàng nhập về theo giá FOB và CF
hay kim ngạch hàng xuất đi theo giá CIF. Thường xuyên quan hệ với khách hàng để khai thác những nguồn hàng nhập hoặc kế hoạch nhập bổ xung hoặc ngoài kế hoạch nhằm tranh thủ bảo hiểm và chuẩn bị tài liệu để chào phí. Phải đi sâu tìm hiểu rõ tính chất và quy cách đóng gói thích hợp của các lô hàng xuất nhập khẩu để áp dụng các điều kiện bảo hiểm thích hợp theo tập quán và quy định, Nắm vững các mặt hàng có tỷ trọng lớn trong kim ngạch nhập qua đó phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đối với số phí thu. Thu thập đầy đủ và nghiên cứu các thông tin về bảo hiểm như các quy tắc, tỷ lệ phí, điều khoản bảo hiểm của thị trường nước ngoài để khi cần có thể đề nghị các văn bản của ta hoặc giải thích và sử dụng chính những điều khoản đó khi có yêu cầu của khách hàng. Kết hợp với bộ phận bồi thường để tính được kết quả bảo hiểm đối với từng khách hàng theo năm nghiệp vụ để kịp thời đề xuất ý kiến điều chỉnh tỷ lệ phí cho thích hợp nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác kinh doanh và phù hợp với từng đối tượng bảo hiểm. Cuối năm chuẩn bị đầy đủ số liệu để họp khách hàng thông báo tình hình tham gia bảo hiểm, nêu những ưu nhược điểm trong năm qua và những vấn đề cần khắc phục cho năm tới của từng khách hàng nhằm hạn chế được nhầm lẫn, sai sót và tổn thất cho hàng hoá, qua đó giúp PJICO làm tốt công tác giám định, đề phòng và hạn chế tổn thất, bồi thường đối với hàng hoá được bảo hiểm và đòi người thứ ba. Phối hợp chặt chẽ với các phòng liên quan như Tài vụ, Tái bảo hiểm, phối hợp để giải quyết kịp thời các vướng mắc trong khâu thu phí bảo hiểm, phân tán rủi ro liên quan đến nghiệp vụ gốc và điều chỉnh kế hoạch thu phí bảo hiểm trong năm đó. Xây dựng văn bản, thể lệ giám định bảo hiểm, khuyến mại và bồi thường tổn thất.
1.2. Quá trình cấp đơn bảo hiểm: quá trình cấp đơn bảo hiểm ở PJICO có sự khác nhau đối với hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá xuất khẩu.
1.2.1. Đối với hàng hoá nhập khẩu, bao gồm 4 bước sau: Bước 1: Kiểm tra chứng từ liên quan.
Khi nhận được giấy yêu cầu bảo hiểm của khách hàng (giấy này làm theo hình thức một đơn bảo hiểm) phải được kiểm tra xem chứng từ có hợp lệ không? Một giấy yêu cầu bảo hiểm được coi là hợp lệ phải có đủ những yêu cầu sau:
Trên giấy yêu cầu phải kê khai rõ ràng tất cả các đề mục đã in sẵn trên đơn. Trong trường hợp khai thiếu những đề mục như: số B/L, ký mã hiệu, trọng lượng, số kiện (do chưa được thông báo đầy đủ) thì vẫn chấp nhận cấp đơn nhưng yêu cầu khách hàng phải bổ sung ngay khi nhận được thông báo.
Nếu thiếu một trong những đề mục cơ bản như: số tiền bảo hiểm (trị giá hàng FOB hoặc C&F), tên tàu vận chuyển, ngày khởi hành, cảng đi và điều kiện bảo hiểm thì giấy yêu cầu đó coi như chưa hợp lệ cần trả lại cho khách hàng đồng