Cần Coi Việc Chống Càn Quét Là Một Quy Luật Của Chiến Tranh Du Kích, Từ Đó Chủ Động Đề Ra Các Biện Pháp Chống Càn

tranh chính trị, kinh tế, địch vận, giữa cuộc chiến đấu của quân dân Thái Bình với quân dân của các chiến trường cả nước đặc biệt là ở trên chiến trường chính. Vì vậy, Chiến dịch Hòa Bình tạo ra bước ngoặt đối với chiến tranh du kích ở Thái Bình không chỉ bởi nó tạo điều kiện cho quân dân trong tỉnh tiêu diệt địch mà quan trọng hơn nó đã tạo điều kiện để chiến tranh du kích ở Thái Bình có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các mặt trận tạo ra sức mạnh tổng hợp để tiêu diệt địch.

Sau Chiến dịch Hòa Bình, sở dĩ ta luôn giành và giữ vững thế chủ động là do ta đã có sự phối hợp, hiệp đồng chiến đấu của quân dân trong tỉnh cả ở vùng giải phóng lẫn vùng tạm chiếm, cả bằng quân sự, chính trị, kinh tế, địch vận, bằng sự phối hợp chiến đấu giữa quân dân Thái Bình với quân dân các chiến trường cả nước. Nhờ sự phối hợp nhịp nhàng và ăn khớp như vậy nên có những trận càn địch sử dụng số quân lớn hơn cả cuộc hành quân ra Hòa Bình như trận càn Thủy Ngân, trận càn Cá Măng… nhưng chúng không những không đạt được mục đích mà ngược lại chúng còn bị thiệt hại nặng nề. Đây cũng chính là đặc điểm nổi bật của cuộc kháng chiến chống Pháp nói chung, chiến tranh du kích ở Thái Bình nói riêng.

Một số nhà chiến lược nước ngoài nghiên cứu về Việt Nam thường cho rằng chiến tranh nhân dân đồng nghĩa với chiến tranh du kích. Thực tế, Đảng ta không bao giờ có một chiến lược quân sự thuần túy, và cũng chưa bao giờ hạn chế chiến tranh ở mức độ chiến tranh du kích. Chiến lược chiến tranh cách mạng của Đảng là một chiến lược tổng hợp, kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn, đánh địch bằng mọi cách, bằng mọi thứ vũ khí có trong tay. Trong khi đẩy mạnh đấu tranh chính trị, phát triển chiến tranh du kích, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng bộ đội chủ lực từ cấp tiểu đoàn, trung đoàn, đến cấp đại đoàn (sư đoàn), trở thành những “quả đấm thép” đủ sức giáng cho địch những đòn tiêu diệt lớn, quyết định chiến trường.

Đây cũng chính là nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới thời đại Hồ Chí Minh, là ánh sáng soi đường cho chiến trường cả nước nói chung, chiến tranh du kích ở Thái Bình nói riêng giành thắng lợi.

3.2.4. Cần coi việc chống càn quét là một quy luật của chiến tranh du kích, từ đó chủ động đề ra các biện pháp chống càn

Trong các kế hoạch của mình, từ Rơve, Đờ lát, Xalăng cho đến Nava đều coi càn quét là yếu tố quyết định để bình định. Đây vốn là con bài quen thuộc để địch thực hiện âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”. Từ đó có thể thấy rằng, chống càn là một trong những nhiệm vụ căn bản của chiến tranh du kích. Vì vậy “Càn quét và chống càn quét là hình thức đấu tranh chủ yếu giữa ta và địch…là quy luật phát triển của cuộc đấu tranh ở vùng sau lưng địch [54, tr.281]. Chỉ có kiên quyết chống càn mới phá được âm mưu của địch, giữ vững được cuộc đấu tranh sau lưng địch. “Chống càn cũng là nhiệm vụ trường kì gian khổ [59, tr. 281].

Thực tế chiến tranh du kích ở Thái Bình luôn gắn liền với hiệu quả của việc chống càn của quân dân trong tỉnh. Lúc đầu do quân dân Thái Bình không đánh giá hết được âm mưu cũng như mức độ khốc liệt của các cuộc càn quét lớn của địch nên việc chống càn của quân dân trong tỉnh luôn ở thế bị động. Vì vậy, chỉ trong một thời gian ngắn từ tháng 3 đến tháng 10-1951, bằng các cuộc càn quét liên tiếp với quy mô lớn, tính chất khốc liệt cao lại được sự hỗ trợ đắc lực của bọn phản động, tay sai, thực dân Pháp đã gây ra những thiệt hại to lớn cho chiến tranh du kích ở Thái Bình. Từ sau Chiến dịch Hòa Bình, hoạt động chống càn của quân dân trong tỉnh mới đem lại hiệu quả, tất cả các cuộc càn quét lớn nhỏ của địch đều bị bẻ gãy, chiến tranh du kích ở trong tỉnh vẫn trụ vững bất chấp quy mô và mức độ của các cuộc càn quét ngày càng ác liệt. Ngoài những điều kiện thuận lợi mà Chiến dịch Hòa Bình đem lại, ta đạt được những kết quả này là do quân dân Thái BÌnh ngày càng thấy rõ tầm quan trọng của việc chống càn. Từ sự chuyển biến về nhận thức

đã dẫn đến những thay đổi trong hoạt động chống càn. Thay vì bị động như trước, ta luôn bám sát mọi âm mưu và hành động của địch từ đó chủ động đưa ra các chủ trương biện pháp đối phó có hiệu quả với ba mức độ càn nhỏ, càn trung bình và càn quét lớn của địch.

Đối với các cuộc càn quét nhỏ, công việc chính cần làm là tăng cường công tác bí mật, trừ gian đồng thời đánh chặn các đội biệt kích của địch trước khi chúng vào tới làng.

Đối với các cuộc càn trung bình, trước hết phải bám sát những vị trí lớn của địch trong vùng và lân cận để có kế hoạch chuẩn bị. Dân quân du kích phải tích cực, kiên quyết đánh tiêu hao khiến cho địch gặp nhiều khó khăn. Bộ đội địa phương tập trung lực lượng vừa giúp đỡ du kích vừa đánh những cánh quân nhỏ, yếu của địch theo lối đánh phục kích, tập kích, địa lôi, cạm bẫy và chú trọng giải thoát cho đồng bào bị bắt và trâu bò, thóc lúa bị địch cướp đi.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Đối với các cuộc càn quét lớn thì tập trung lực lượng du kích, bộ đội địa phương đánh tiêu hao bằng mìn, cạm bẫy, tìm cách luồn càn, thoát khỏi vòng vây để đánh vào sau lưng địch. Các nơi khác phối hợp chặt chẽ khi địch rút quân ứng chiến, địa bàn chiếm đóng của chúng bị sơ hở.

Xuất phát từ những biện pháp và chủ trương như vậy, ta thực hiện nội ngoại tuyến giáp công, hợp đồng tác chiến trong phạm vi xã, huyện, tỉnh, trong toàn khu, biết phân tán luồn càn, tránh chỗ mạnh đánh vào chỗ yếu và sơ hở bằng phương thức “chia ra để tránh, tụ lại để đánh” với yếu tố bí mật, bất ngờ, chớp nhoáng. Thực hiện phát động quần chúng, củng cố cơ sở, tổ chức phòng gian tích cực. Tăng cường cho lực lượng du kích và bộ đội địa phương về trang bị vũ khí và tổ chức. Xúc tiến xây dựng và củng cố làng chiến đấu làm nơi đứng chân cho bộ đội chủ lực.

Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo chiến tranh du kích trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp 1946 - 1954 - 14

Đối với bộ đội, chuẩn bị các phương án tác chiến, giữ bí mật, giấu kín lực lượng, bám sát tình hình địch đồng thời có kế hoạch cụ thể bảo vệ nhân

dân và tổ chức giải thoát cho dân khi bị địch bắt. Nhân dân có kế hoạch sơ tán cất giấu tài sản, thóc lúa.

Cán bộ, đảng viên bám sát dân khi họ đi sơ tán để giải thích, tuyên truyền, giữ vững tinh thần cho nhân dân. Đồng thời từng bước kết hợp chống càn bằng đấu tranh quân sự của lực lượng vũ trang với đấu tranh chính trị của nhân dân nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, hạn chế sự khủng bố, phá hoại của kẻ thù, hạn chế tác hại của các cuộc càn quét. Điểm cốt lõi để chiến tranh du kích chống được càn là phải huy động toàn dân tham gia chống càn, cả ba thứ quân cùng phối hợp chiến đấu khi địch càn, đánh địch ở khắp mọi nơi (trong làng, ngoài đồng) bằng mọi vũ khí có trong tay đặc biệt là chông, mìn, cạm bẫy, địa lôi khiến địch đi đến đâu cũng bị đánh, bị tiêu hao, bị quấy rối, bị đánh cả trước mặt, sau lưng, trong vòng vây và ngoài vòng vây, bị đánh ở bên sườn đội hình, thậm chí bị tiến công trực tiếp vào bộ chỉ huy cuộc càn như trong trận càn Con Trâu.

3.2.5. Đảng bộ địa phương phải không ngừng củng cố và hoàn thiện về tổ chức và năng lực lãnh đạo

Từ khi Đảng ra đời, sự lãnh đạo của Đảng luôn là nhân tố quyết định đến mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nhưng để chủ trương, đường lối của Đảng được áp dụng một cách linh hoạt vào địa phương, đòi hỏi vai trò quyết định của Đảng bộ ở địa phương đó, trong đó chi bộ đảng có vai trò đặc biệt. “Tất cả mọi đường lối ấy đều do chi bộ đảng đảm bảo sự thành công…Ngay từ đầu, trong tình thế gian khổ nguy nan nhất, chi bộ thực sự đã làm nòng cốt của chiến tranh cách mạng, chống thực dân Pháp phản động Pháp. Chi bộ là cơ sở, là yếu tố căn bản” [40,tr. 43].“Không có chi bộ mạnh, kiên cường và tài giỏi, thì không thể có chiến tranh nhân dân phát triển mạnh mẽ và rộng khắp” [54, tr. 407].

Lần đầu tiên lãnh đạo nhân dân trong tỉnh cùng dân tộc tiến hành một cuộc chiến tranh cách mạng, một loạt các vấn đề được đặt ra cho Đảng bộ

Thái Bình. Với một tỉnh địa hình không thuận lợi cho chiến tranh du kích, kẻ địch mạnh hơn ta gấp nhiều lần, làm thế nào để áp dụng một cách linh hoạt đường lối kháng chiến của Đảng, Bác Hồ để lãnh đạo toàn thể quân dân thực hiện một cuộc chiến tranh du kích đánh bại quân thù, giải phóng quê hương. Đây là những vấn đề mà Đảng bộ Thái Bình chưa có kinh nghiệm. Những kinh nghiệm trong những ngày tổng khởi nghĩa, trong việc xây dựng và bảo vệ chính quyền ở những ngày đầu sau Cách mạng Tháng Tám chưa đủ để giải quyết một loạt vấn đề mới mà cuộc chiến tranh du kích ở Thái Bình đặt ra.

Sự thiếu kinh nghiệm này được biểu hiện ngay từ khi địch thực hiện cuộc tấn công Cái Thùng (Tonnô) đánh chiếm Thái Bình. Không ít đảng viên trong tỉnh đã bỏ đất, bỏ dân chạy dài, một số ở lại có tư tưởng cầu an, số khác nằm im không dám hoạt động gây tổn thất rất to lớn cho phong trào kháng chiến nói chung, chiến tranh du kích nói riêng. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này một phần là do so sánh lực lượng giữa ta và địch, kẻ địch lại sử dụng nhiều âm mưu, thủ đoạn tàn bạo thâm độc, nhưng nguyên nhân chủ yếu đó là do sự thiếu kinh nghiệm, sự bỡ ngỡ của cán bộ đảng viên trong tỉnh khi Thái Bình chuyển từ vùng tự do thành vùng tạm chiếm.

Tuy nhiên được sự chỉ đạo của Trung ương, của Liên ủy khu đặc biệt là bài học xương máu rút ra từ thực tiễn chiến đấu, Đảng bộ Thái Bình đã tìm ra những đáp số để giải những bài toán khó khăn mà chiến tranh du kích trong tỉnh đang gặp phải. Đó là các chi bộ đảng ở trong tỉnh phải không ngừng hoàn thiện về tổ chức và năng lực lãnh đạo. Trong đó, muốn lãnh đạo quân dân trong tỉnh đánh tan mọi hành động xâm lược của kẻ thù, các chi bộ đảng trong tỉnh phải có bản lĩnh của một Đảng cầm quyền lãnh đạo chiến tranh. Đó là ý chí quyết chiến, quyết thắng, biết đánh và biết thắng, đó là tính chủ động, nhanh nhạy trong việc nắm bắt tình hình và chỉ đạo thực tiễn. Đó là năng lực tổ chức bám đất, bám dân, từng bước xây dựng thực lực cách mạng với phương châm “rời dân ra là thất bại”. Đảng phải luôn đặt mình trong tình thế

chiến tranh, luôn tập dượt mọi tình huống của chiến tranh, thường xuyên theo dõi, quan sát, phán đoán mọi âm mưu của địch, dự báo các khả năng có thể xảy ra trên địa bàn, nhất là các khả năng xấu, từ đó có các phương án xử lý các tình huống, hết sức tránh trường hợp bị bất ngờ. Sự phối hợp chặt chẽ giữa các chi bộ đảng trong tỉnh, giữa Đảng bộ tỉnh với Đảng bộ tỉnh bạn và nhận rõ mối quan hệ giữa địa phương với tình hình toàn quốc là điều hết sức quan trọng để có những đối sách một cách kịp thời và thích hợp. Phải xây dựng Đảng với số lượng đảng viên đủ, nhưng chất lượng, có tư tưởng kiên định, thắng không kiêu, bại không nản, tư tưởng chủ động tiến công địch trong bất cứ tình huống nào.

Thực tế thắng lợi của chiến tranh du kích ở Thái Bình đã chứng minh nếu như nhân dân Thái Bình luôn là nền tảng, là sức mạnh của mọi sức mạnh để chiến tranh du kích trong tỉnh vượt qua mọi khó khăn tiến lên giành thắng lợi, thì sự lãnh đạo của Đảng bộ Thái Bình luôn là nhân tố quyết định của mọi thắng lợi đó. Những giai đoạn khó khăn và thành công của chiến tranh du kích có mối quan hệ chặt chẽ với sự lãnh đạo của Đảng bộ trong tỉnh. Đây là một bài học mang tính quy luật mà cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.

KẾT LUẬN

Âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt đánh người Việt” luôn được coi là điều kiện tiên quyết để thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Vì vậy, việc xâm chiếm và bình định đồng bằng Bắc Bộ luôn chiếm một vị trí trọng yếu trong các kế hoạch của địch.

Thái Bình có vị trí chiến lược ở đồng bằng Bắc Bộ, trong những năm đẩu kháng chiến chống Pháp, nơi đây là an toàn khu của Liên khu III. Vì vậy, thực dân Pháp quyết tâm đánh chiếm và bình định bằng được tỉnh Thái Bình.

Nằm ở một vị trí chiến lược như vậy, nhưng cho đến trước tháng 2- 1950, Thái Bình vẫn còn là một tỉnh tự do. Đặc điểm này một mặt tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân Thái Bình từng bước khắc phục những khó khăn của những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám, đồng thời ra sức chuẩn bị mọi mặt cho cuộc chiến đấu khi địch tấn công Thái Bình. Tuy nhiên, cũng vì là địa bàn chưa có chiến sự lại nhận được sự chỉ đạo chuẩn bị “tổng phản công” của Trung ương nên đa số cán bộ, đảng viên và quân dân Thái Bình có tư tưởng chủ quan không đánh giá hết được âm mưu của địch. Tư tưởng này đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình chuẩn bị mọi mặt cho chiến đấu khi địch đánh chiếm Thái Bình.

Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 8-2-1950, thực dân Pháp chính thức mở cuộc tiến công đánh chiếm Thái Bình. Do nhận thức chưa đầy đủ, mắc sai lầm trong việc đánh giá về địch cùng những khuyết điểm trong quá trình chuẩn bị đã khiến cho quân dân trong tỉnh bị bất ngờ trước các cuộc tấn công tàn bạo và thâm hiểm của địch. Vì vậy, dù chiến đấu rất dũng cảm, ngoan cường nhưng quân dân trong tỉnh không ngăn được cuộc tấn công đánh chiếm Thái Bình của địch. Chiến tranh du kích ở Thái Bình chịu những tổn thất nặng nề, nghiêm trọng. Hơn 80% đất đai trong tỉnh trở thành vùng tạm chiếm, đa số cán bộ đảng viên, lực lượng vũ trang trong tỉnh bị bật đất, bật dân, chạy dài,

số còn lại có tư tưởng cầu an hoặc nằm im không dám hoạt động. Nhân dân hoang mang, dao động trước sự khủng bố điên cuồng của kẻ thù. Chiến tranh du kích ở trong tỉnh bước vào thời kì gay go, quyết liệt.

Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, của Liên khu ủy III mà trực tiếp là của Đảng bộ Thái Bình, cán bộ, đảng viên và các lực lượng vũ trang đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, kiên trì bám đất, bám dân gây dựng lại phong trào chiến tranh du kích. Nhờ vậy, chỉ trong vòng chưa đầy một năm (từ tháng 5-1950 đến tháng 3- 1951), chiến tranh du kích ở trong tỉnh không chỉ phục hồi mà còn có những bước phát triển. Tuy nhiên, những thành quả đó cũng chưa đủ sức để ngăn nổi các cuộc càn quét liên tiếp, cường độ cao, quy mô lớn với tính chất vô cùng tàn bạo và thâm hiểm của địch. Một lần nữa chiến tranh du kích ở Thái Bình lại chịu những tổn thất nặng nề. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này thì chủ yếu là do chiến tranh du kích ở Thái Bình chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các khu vực, các vùng trong tỉnh, chưa có được hỗ trợ có hiệu quả của các địa phương bạn và chiến trường trên cả nước, đặc biệt là trên chiến trường chính. Vì vậy, chiến dịch Hòa Bình chính là bước ngoặt để chiến tranh du kích ở vùng địch hậu nói chung, ở Thái Bình nói riêng tiến lên phát triển mạnh mẽ.

Phối hợp với chiến dịch Hòa Bình, được sự hỗ trợ trực tiếp của Đại đoàn 320 cùng những bài học kinh nghiệm được rút ra từ thực tế chiến đấu, chiến tranh du kích ở Thái Bình đã có bước phát triển mạnh mẽ. Quân dân trong tỉnh không chỉ tấn công tiêu diệt địch, giải phóng đất đai mà quan trọng hơn nó đã tạo điều kiện chiến tranh du kích ở Thái Bình giành được thế chủ động. Vì vậy, từ sau chiến dịch Hòa Bình, chiến tranh du kích ở Thái Bình vẫn giữ vững được quyền làm chủ, lần lượt đập tan các âm mưu của địch, giải phóng quê hương qua đó góp phần cùng quân dân cả nước đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp có sự hậu thuẫn của Mĩ.

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 25/09/2023