Kết Quả Và Hiệu Quả Kinh Tế Sản Xuất Vải Ở 3 Xã Điều Tra Năm 2006


với giá của nó. Các yếu tố đầu vào bao gồm đạm, lân, ka li, chi phí thuốc bảo vệ thực vật và chi phí khác.

Bảng 2.19. Kết quả và hiệu quả kinh tế sản xuất vải ở 3 xã điều tra năm 2006

(Tính bình quân cho 1 ha)



Chỉ tiêu


ĐVT

Các xã


Bình quân

Phượng Sơn

Giáp Sơn

Tân Mộc

Năng suất

tạ/ha

48,4

45,9

39,0

43,4

Tổng giá trị sản xuất (GO)

1000đ

36.784

36.261

28.860

33.244,4

Chi phi trung gian (IC)

1000đ

5.095

5.180,7

4.345,2

4.947,0

Giá trị gia tăng (VA)

1000đ

31.689

31.080.3

24.514.8

28.297,4

Thu nhập hỗn hợp (MI)

1000đ

31.213,7

30.614,1

24.147,1

27.872,9

Lao động

Công

167

165

140

157

IC/1 tấn sản phẩm

1000đ

1.052,7

1.128,7

1.114,2

1.139,86

VA/1 tấn sản phẩm

1000đ

6.547,3

6.771,3

6.285,8

6.520,14

GO/IC

lần

7,2

7,0

6,6

6,7

MI/IC

lần

6,1

5,9

5,6

5,6

GO/1 công lao động

1000đ

220,3

219,8

206,1

212,2

VA/1 công lao động

1000đ

189,8

188,4

175,1

180,6

MI/1 công lao động

1000đ

186,9

185,5

172,5

177,9

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế cây vải thiều trên địa bàn huyện Lục Ngạn - tỉnh Bắc Giang - 11

Nguồn: Kết quả điều tra hộ nông dân năm 2006

Số liệu bảng 2.19 cho thấy tổng giá trị sản xuất ở Phượng Sơn là cao nhất 36.784 nghìn đồng/ha, sau là Giáp Sơn 36.261 nghìn đồng/ha thấp hơn so với Phượng Sơn là 525 nghìn đồng/ha và xã thấp nhất là Tân Mộc 28.860 nghìn đồng/ha, thấp hơn so với Phượng Sơn, Giáp Sơn lần lượt là 7.924 nghìn đồng/ha, 7.401 nghìn đồng/ha. Nguyên nhân của sự chênh lệch này một phần do giá bán vải ở Tân Mộc thấp hơn so với Phượng Sơn và Giáp Sơn. Sản


phẩm vải quả sản xuất ở Phượng Sơn, Giáp Sơn có chất lượng cao, được nhiều người tiêu dùng ưa thích nên giá bán bình quân cao hơn so với Tân Mộc. Hiệu quả sử dụng chi phí: Xét về chi phí trung gian trên 1 ha thì Giáp

Sơn có mức đầu tư cao nhất 5180,7 nghìn đồng/ha, sau là Phượng Sơn

5.095 nghìn đồng/ha và xã có mức đầu tư thấp nhất là Tân Mộc 4.345,2

nghìn đồng/ha. Tuy nhiên để sản xuất ra 1 tấn vải quả thì chi phí bỏ ra (IC/ 1 tấn sản phẩm) của Phượng Sơn là 1.052,7 nghìn đồng thấp hơn so với Giáp Sơn và Tân Mộc lần lượt là 56 nghìn đồng và 61,5 nghìn đồng.

Hiệu quả đầu tư công lao động thể hiện ở chỉ tiêu thu nhập hỗn hợp/ công lao động gia đình. Ở Phượng Sơn là cao nhất 186,9 nghìn đồng/công cao hơn ở Giáp Sơn và Tân Mộc lần lượt là 1,4 nghìn đồng/công và 14,4 nghìn đồng/công.

Kết quả điều tra cũng cho thấy năng suất vải quả của Phượng Sơn là cao nhất 48,4 tạ/ha, sau là Giáp Sơn 45,9 tạ/ha và thấp nhất là Tân Mộc 39 tạ/ ha thấp hơn so với Phượng Sơn và Giáp Sơn lần lượt là 9,4 tạ/ha và 6,9 tạ/ha. Nguyên nhân có sự khác biệt này là do vùng đất Phượng Sơn, Giáp Sơn có điều kiện đất đai màu mỡ hơn, điều kiện về nguồn nước tốt hơn. Mặt khác

người dân ở

khu vực Phượng Sơn có kinh nghiệm hơn trong đầu tư

thâm

canh. Thêm vào đó thì vùng Tân Mộc chủ yếu trồng vải trên đất đồi núi cao, điều kiện tưới tiêu cho vải gặp nhiều khó khăn, nhất là vào mùa khô hạn. Chính vì vậy mà năng suất vải quả ở Phượng Sơn, Giáp Sơn cao hơn so với Tân Mộc.

2.4.4. Kết quả và hiệu quả kinh tế của vải thiều sấy khô năm 2006

Qua điều tra thực tế cho thấy những hộ vừa sản xuất, vừa sơ chế là

để tận dụng lao động gia đình hoặc sản phẩm vải quả có chất lượng

không đồng đều hoặc giá bán thấp hơn so với giá bình quân chung hoặc vào vụ thu hoạch, các hộ không thu hoạch kịp để tiêu thụ vải tươi.


Bảng 2.20. Kết quả và hiệu quả kinh tế vải thiều sấy khô ở

các điểm điều tra năm 2006 (tính bình quân cho 1 ha)


Chỉ tiêu

ĐVT

Phượng

Sơn

Giáp

Sơn

Tân

Mộc

Bình

quân

Năng suất

Tạ/ha

48,4

45,9

39,0

43,4

Giá trị sản xuất ( GO)

1000đ

44.590

42.245

34.884

39.627

,4

Chi phí trung gian ( IC)

1000đ

5.779,

2

5.981,

9

5.141

5.809,

9

Giá trị gia tăng (VA)

1000đ

38.810

,8

36.263

,1

29.743

33.817

,5

Thu nhập hỗn hợp ( MI )

1000đ

38.228

,6

35.719

,2

29.297

,0

33.310

,2

Lao động

công

190

189

160

179

GO/IC

lần

7,72

7,06

6,79

6,82

MI/IC

lần

6,61

5,97

5,70

5,73

GO/1 công lao động

1000đ

234,7

223,52

218,0

221,4

VA/1công lao động

1000đ

204,3

191,9

185,9

188,9

MI/1công lao động

1000đ

201,2

189,0

183,1

186,1

Nguồn: Kết quả điều tra hộ nông dân năm 2006

Qua bảng 2.20 cho thấy, các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của vải thiều sấy khô trên địa bàn 3 xã được điều tra là Giáp Sơn, Tân Mộc và Phượng Sơn. Bình quân năng suất vải quả tươi của 3 xã nghiên cứu là 43,4 tạ/ha trong đó năng suất của xã Tân Mộc là 39 tạ/ha, xã Giáp Sơn là 45,9 tạ/ha và cao nhất là năng suất của xã Phượng Sơn đạt mức 48,4 tạ/ha.

Trung bình của 3 xã điều tra giá trị sản xuất đạt mức 39.627,4 nghìn

đồng, trong 3 xã được chọn điều tra thì giá trị sản xuất (GO) của xã

Phượng Sơn đạt mức cao nhất: 44.590 nghìn đồng và thấp nhất là xã Tân Mộc: 34.884 nghìn đồng. Qua điều tra trên 3 xã có thể thấy chi phí trung gian để sản xuất vải thiều sấy khô của xã Tân Mộc là thấp nhất: 5.141


nghìn đồng và cao nhất là ở xã Giáp Sơn: 5.981,9 nghìn đồng. Trong khi

đó giá trị

gia tăng trung bình là

33.817 nghìn đồng, mức cao nhất đạt

được là của xã Phượng Sơn 38.810,8 nghìn đồng và mức thấp nhất là ở xã Tân Mộc: 29.743 nghìn đồng. Như vậy về cơ bản với 3 xã được điều tra thì hiệu quả của vải sấy khô ở xã Phượng Sơn có mức cao nhất.

Qua bảng 2.20 chúng ta có thể

thấy khi tăng thêm 1 đơn vị

chi phí

trung gian thì thu nhập hỗn hợp bình quân của 3 xã tăng thêm 5,73 lần và xã cao nhất có thu nhập hỗn hợp được tăng lên khi tăng thêm 1 đơn vị chi phí trung gian là xã Phượng Sơn 6,61 lần. Theo đó có thể thấy thu nhập hỗn hợp được tăng thêm là rất lớn khi tăng thêm chi phí trung gian đầu tư cho quá trình sấy khô và tiêu thụ vải thiều.

Tìm hiểu về công lao động được sử dụng để sấy khô vải thiều, ta biết rằng, khi tăng thêm 1 công lao động cho quá trình sấy khô vải thì giá trị sản xuất bình quân của 3 xã sẽ tăng thêm 221,4 nghìn đồng trong đó giá trị

sản xuất của xã Phượng Sơn tăng cao nhất

ở mức 234,7 nghìn đồng

khi

tăng thêm 1 công lao động. Thêm vào đó khi tăng thêm 1 công lao động thì giá trị gia tăng của vải thiều sấy khô ở xã Phượng Sơn cũng đạt mức cao nhất 204,3 nghìn đồng.


45000

40000

35000

30000

25000

20000

15000

10000

5000

0

GO IC

Nh ư ỹl e Sơl

VA

Giáp Sơn

MI

Tân M ộc


Đồ thị 2.3. So sánh kết quả kinh tế của vải sấy khô ở các điểm điều tra

2.4.5. Hiệu quả xã hội

Chương trình phát triển kinh tế


vườn đồi đã gắn với chương trình

quốc gia về

tạo việc làm tại chỗ

và xóa đói giảm nghèo. Với diện tích

19.192 ha cây vải, bình quân một ha cây vải tạo việc làm ổn định cho

khoảng 157 công lao động chính mỗi năm. Hàng năm huyện đã tạo việc làm

ổn định cho khoảng 3.016.284 công lao động, mỗi công lao động trị

25.000 đ/ngày (năm 2006) tương ứng với khoảng 75,407 tỷđồng.

giá


Không những thế, hàng năm Lục Ngạn còn thu hút và giải quyết cho hàng ngàn lao động, hàng vạn ngày công của bà con từ các tỉnh Đồng Bằng lên làm thuê cho các gia đình có trang trại. Điều này vượt ra ngoài các giá trị kinh tế, rõ ràng nó còn bao hàm các giá trị đạo đức xã hội rất to lớn. Nhờ có việc làm ổn định mà tốc độ xóa đói giảm nghèo trên địa bàn

huyện đạt kết quả

cao. Tỷ lệ

hộ đói nghèo giảm từ

65,5% năm 1982

xuống dưới 20% năm 2000 và 38,07% năm 2006 ( theo tiêu chuẩn mới).


2.4.6. Hiệu quả về môi trường sinh thái

Phong trào phát triển kinh tế vườn đồi, đặc biệt là cây ăn quả đã gắn với mục tiêu chiến lược của Nhà nước về phủ xanh đất trống đồi núi trọc và chương trình trồng 5 triệu ha rừng. Các loại cây vải không chỉ là cây ăn


quả có giá trị kinh tế cao mà còn có tác dụng phòng hộ, trống sói mòn, và cải tạo môi trường sinh thái. Việc phát triển cây ăn quả cùng với trồng rừng và bảo vệ rừng, nên tốc độ che phủ trong huyện đã tăng từ 16,8% năm 1982 lên 38,4 % năm 2000 và 68% năm 2006. Từ phát triển kinh tế vườn rừng, trang

trại trồng cây ăn quả, đến nay Lục Ngạn đã trở thành một vùng quê có

không khí trong lành, xanh tươi mát mẻ, được du khách mọi miền đất nước đến thăm quan. Lục Ngạn đã và đang trở thành vùng du lịch sinh thái hấp dẫn đối với du khách.

2.4.7. So sánh kết quả và hiệu quả kinh tế giữa vải sấy khô với vải quả

tươi

Để thấy rõ được hiệu quả

kinh tế

giữa vải sấy với vải quả

tươi

chúng tôi tiến hành so sánh hiệu quả kinh tế giữa vải quả tươi với vải sấy vải khô như sau:

Bảng 2.21. So sánh kết quả và HQKT giữa vải quả tươi với vải sấy

khô ở huyện Lục Ngạn năm 2006 (tính trên 1 ha)

Chỉ tiêu

ĐVT

Vải tươi

Vải sấy khô

So sánh (%)

A

1

3

4

5=4/3

Giá trị sản xuất (GO)

1000đ

33.244,4

39.627,4

119,2

Chi phí trung gian (IC)

1000đ

4.947,0

5.809,9

117,4

Giá trị gia tăng (VA)

1000đ

28.297,4

33.817,5

119,5

Thu nhập hỗn hợp (MI)

1000đ

27.872,9

33.310,2

119,5

Lao động

Công

157

179

114,3

GO/IC

Lần

6,7

6,82

101,5

MI/IC

Lần

5,6

5,73

101,8

GO/1công lao động

1000đ

212,2

221,4

104,3

VA/1công lao động

1000đ

180,6

188,9

104,6

MI/1 công lao động

1000đ

177,9

186,1

104,6

Nguồn: Kết quả điều tra các hộ nông dân năm 2006


Kết quả

điều tra cho thấy, giá trị

sản xuất vải sấy khô là 39.627

nghìn đồng/ha, cao hơn so với vải quả tươi 6.383 nghìn đồng/ha tương ứng

với mức tăng hơn là 19,2%. Giá trị

gia tăng của vải quả

tươi là 28.297

nghìn đồng/ha, vải sấy khô là 33.817,5 nghìn đồng/ha, cao hơn so với vải quả tươi là 5.520,5 nghìn đồng/ha tương ứng với mức cao hơn 19,51%. Thu

nhập hỗn hợp vải quả tươi là 27.872,9 nghìn đồng/ha, vải sấy khô là

33.310,2 đồng/ha, cao hơn so với vải quả tươi là 5.437,3 nghìn đồng/ha,

tương ứng với mức cao hơn là 19,51%. Qua phân tích trên có thể kết luận như sau:Tổng kết lại chúng ta thấy rằng trên cùng đơn vị diện tích hiệu quả vải sấy khô cao hơn so với vải quả tươi bởi vậy nên tập trung cho việc sản xuất vải sấy khô.

2.4.8. So sánh kết quả kinh tế của một số cây ăn quả chủ yếu ở huyện Lục Ngạn năm 2006

Lục Ngạn là vùng có điều kiện đất đai, khí hậu rất phù hợp để phát

triển nhiều loại cây ăn quả. Song trong những năm gần đây cơ cấu diện

tích, giá trị

kinh tế

của cây Vải, Nhãn và Hồng luôn chiếm tỷ

trọng cao

trong tổng giá trị cây cây ăn quả. Hiệu quả kinh tế của một số cây ăn quả được thể hiện ở bảng 2.22

Qua bảng 2.22 chúng ta thấy: Giá trị sản xuất cây vải là 32.550 nghìn đồng cao hơn cây nhãn 147,8% và cao hơn cây hồng 160%. Thu nhập hỗn hợp của cây vải 27.159 nghìn đồng cao hơn so với cây nhãn 18.116 nghìn đồng và cây hồng 17.009 nghìn đồng.

Bảng 2.22. So sánh kết quả kinh tế của một số cây ăn quả huyện Lục Ngạn

Cây trồng

Chỉ tiêu


Nhãn 1000đ


Vải 1000đ


Hồng 1000đ

So sánh (%)

Vải/Nhã n

Vải/Hồn g

Giá trị sx (GO)

22.020

32.550

20.340

147,8

160,0

Chi phí trung gian (IC)

3.628

4.977

3.072

137,2

162,0








Giá trị gia tăng (VA)

18.392

27.573

17.268

149,9

159,7

Thu nhập hỗn hợp (MI)

18.116

27.159

17.009

149,9

159,7

Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra hộ nông dân năm 2006

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 19/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí