130
Như vậy, giữ gìn và phát huy BSVH gắn với nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc là hai nhiệm vụ, hai mục tiêu gắn kết, bổ trợ lẫn nhau để tạo nên sự phát triển bền vững. Giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS là điều kiện, là nguồn vốn cho sự phát triển kinh tế nhằm nâng cao đời sống vật chất, đời sống tinh thần cho đồng bào. Nguồn vốn này tồn tại dưới hai dạng: dạng tiềm ẩn tồn tại thông qua con người - chủ thể của quá trình phát triển kinh tế với đầy đủ đức tính yêu nước, cần cù, thông minh, sáng tạo, chịu thương, chịu khó, đoàn kết, ý chí vươn lên… và dạng hiện hữu thông qua các giá trị VH vật thể (nhà ở, trang phục, ẩm thực) và giá trị VH phi vật thể (ngôn ngữ, phong tục tập quán, lễ hội, kho tàng VH nghệ thuật, tri thức bản địa…) - đối tượng khám phá, tìm hiểu của khách du lịch. Nếu biết cách khai thác tốt dạng hiện hữu này để phát triển ngành du lịch (du lịch VH) thì sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao khi mà hiện nay xu hướng tìm về BSVH các DTTS đang được các du khách quan tâm.
Trong những năm gần đây, để nâng cao đời sống vật chất - tinh thần cho đồng bào các DTTS, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách, chương trình thực hiện nhằm tăng cường phát triển kinh tế ở các địa phương ở vùng đồng bào các DTTS như: Quyết định 134/2004/QĐ - TTg của Thủ tướng chính phủ về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất nhà ở và nước sinh hoạt cho đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn; chương trình 135 giai đoạn II; Quyết định 32/QĐ-TTg về chính sách cho vay vốn và phát triển sản xuất… và một số chương trình, dự án khác.
Thực hiện những chính sách trên, các tỉnh vùng Đông Bắc đã xác định đặt sự phát triển của tỉnh trong chiến lược phát triển chung của cả nước và vùng trung du và miền núi phía Bắc. Mở rộng quan hệ hợp tác với bên ngoài trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, VH, giáo dục, y tế… đồng thời chủ động hội nhập quốc tế, dựa vào hội nhập để phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển VH xã hội, đảm bảo cho mọi người dân có cơ hội tham gia vào công việc chung và hưởng thụ các thành quả của sự phát triển, giảm khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng trong tỉnh, thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống, mức hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần. Khi đời sống vật
131
chất và tinh thần được nâng cao thì cũng là điều kiện để giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS được tốt hơn.
4.1.3. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số bằng việc phát huy vai trò chủ thể của đồng bào dân tộc thiểu số
Thực tế cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước thông qua chủ trương, chính sách, pháp luật chỉ thực sự phát huy khi nhận được sự đồng thuận và tham gia tích cực của đồng bào các DTTS. Do đó, để phát huy tốt vai trò chủ thể của đồng bào các DTTS trong việc giữ gìn và phát huy BSVH của DT mình, cần chú ý:
Có thể bạn quan tâm!
- Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc Việt Nam hiện nay - 15
- Khoảng Cách Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn Trong Việc Giữ Gìn, Phát Huy Bản Sắc Văn Hóa Các Dân Tộc Thiểu Số Vùng Đông Bắc
- Những Bất Cập Giữa Yêu Cầu Phát Triển Kinh Tế Với Yêu Cầu Giữ Gìn Và Phát Huy Bản Sắc Văn Hóa Các Dân Tộc Thiểu Số Vùng Đông Bắc.
- Xây Dựng Đội Ngũ Làm Công Tác Văn Hóa Đáp Ứng Yêu Cầu Giữ Gìn, Phát Huy Bản Sắc Văn Hóa Các Dân Tộc Thiểu Số
- Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc Việt Nam hiện nay - 20
- Nịnh Văn Độ (Chủ Biên) (2003), Văn Hoá Truyền Thống Các Dân Tộc Tày, Dao, Sán Dìu Ở Tuyên Quang. Nxb Văn Hoá Dân Tộc, Hà Nội.
Xem toàn bộ 190 trang tài liệu này.
Trong quá trình cụ thể hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước thông qua các chương trình, dự án, phải chú ý đến điều kiện kinh tế
- xã hội và sự đa dạng của từng vùng, từng DT; chú trọng tính đặc thù của từng DT để có những hình thức, bước đi và giải pháp hiệu quả, phù hợp với thực tiễn địa phương nhằm phát huy vai trò chủ động, tích cực, làm chủ của đồng bào các DTTS.
Các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương cần có những biện pháp cụ thể để tuyên truyền, giáo dục cho đồng bào nhận thức được tầm quan trọng của việc giữ gìn, phát huy BSVHDT và vai trò chủ thể chính thuộc về đồng bào các DTTS, bởi họ chính là chủ nhân của nền VH do họ cùng cộng đồng sáng tạo ra đồng thời họ chính là chủ thể duy trì, thực hành và hưởng thụ các giá trị VH giàu bản sắc đó. Cần giúp họ nhận ra vấn đề BSVH của họ được duy trì, gìn giữ, phát huy trong cuộc sống và được trao truyền qua các thế hệ là phụ thuộc chính vào sự tham gia tích cực của bản thân đồng bào, không nên có thái độ và tâm lý dựa dẫm, ỷ lại, trông chờ vào sự giúp đỡ của nhà nước. Nhà nước chỉ tạo điều kiện giúp đỡ về cơ sở vật chất, tinh thần và nguồn lực, kỹ thuật. Mọi sự giúp đỡ đó chỉ phát huy tác dụng khi được đồng bào chủ động tiếp nhận và biến thành những hành động cụ thể.
Sở dĩ cần nhấn mạnh điều này bởi những năm qua, để thực hiện các chương trình phát triển VH, mọi cái (để thực hiện chương trình đó) từ ngân sách, cán bộ thực hiện đến việc xây dựng thiết chế VH cho đồng bào các DTTS đều là của nhà nước, từ phía nhà nước. Do đó, cái VH mà chúng ta
132
đang làm cho đồng bào các DTTS thường mang “dấu ấn nhà nước”, điều đó tạo nên tính ỷ lại của các tộc người vào nhà nước, nếu nhà nước không quan tâm đầu tư thì họ mặc kệ. Mặt khác, các chương trình, dự án được thực thi thường không có sự tham gia của chính đồng bào các DTTS nên nó tạo ra một tâm lý thờ ơ với những gì họ đang được nhận. Do đó, cần thiết phải coi việc giữ gìn và phát huy BSVH của đồng bào các DTTS là hoạt động tự thân của đồng bào, đồng bào là chủ thể thực hiện và hưởng thụ các giá trị VH, dưới sự định hướng của nhà nước.
Để phát huy tốt vai trò chủ thể của đồng bào các DTTS trong việc giữ gìn và phát huy BSVH của DT mình, các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương cần có những chính sách tạo điều kiện để đồng bào nâng cao trình độ dân trí, tăng cường sự hiểu biết. Chỉ khi trình độ dân trí được nâng cao, nhận thức về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước mới được sáng tỏ, đồng bào mới vận dụng được một cách linh hoạt vào trong cuộc sống. Đồng thời, trên cơ sở của sự hiểu biết, đồng bào mới nhận thức được mặt nào là tích cực, là giá trị để tiếp tục có những hành động giữ gìn, duy trì và tiếp tục phát huy nó trong cuộc sống; loại bỏ dần những hủ tục, tập quán lạc hậu, những mặt tiêu cực, không còn phù hợp với xã hội mới, đề kháng được những yếu tố VH ngoại lai đang tác động, len lỏi, xâm nhập vào đời sống của đồng bào - những yếu tố không phù hợp với thuần phong, mỹ tục của đồng bào, với giá trị tốt đẹp của DT.
Thực tế, trong thời gian qua, để nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách như: miễn giảm học phí, cấp không giấy viết, sách giáo khoa, thực hiện chính sách cử tuyển, ưu tiên điểm cho con em đồng bào các DTTS, miền núi khi thi vào các trường Đại học, chuyên nghiệp… Vì vậy, sự nghiệp giáo dục đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc đã có những tiến bộ vượt bậc. Giáo dục mầm non đã phát triển sâu rộng từ các thị xã, thị trấn đến các vùng nông thôn. Tại các thôn bản đều có trường hoặc các lớp cấp I. Nhiều xã, cụm xã có trường tiểu học và trung học cơ sở. Tất cả các huyện đều có trường trung học phổ thông. Hệ thống các trường DT nội trú từ Trung ương đến địa phương đã tạo điều kiện cho con em đồng bào các
DTTS vùng sâu, vùng xa có nhiều cơ hội học tập. Đến năm 2010, toàn vùng Đông Bắc có 1744 trường phổ thông với 560.974 học sinh [144; 647-651]. Cùng với hệ thống các trường công lập, được sự đầu tư của trung ương và địa phương, mạng lưới các trường DT nội trú bao gồm 4 trường DT nội trú cấp tỉnh và các trường DT nội trú cấp huyện. Ngoài ra, trường phổ thông Vùng cao Việt Bắc là trường DT nội trú duy nhất của cả nước có 3 hệ đào tạo (trung học Phổ thông, Dự bị đại học DT và Trung học cơ sở) với quy mô trên 1800 em/năm thuộc 21 tỉnh với 29 DT trên tổng số 53 DTTS cả nước.
Cùng với kết quả đạt được, trong quá trình phát triển giáo dục tại vùng Đông Bắc vẫn bộc lộ một số hạn chế: năm 2010, tất cả các tỉnh đạt chuẩn giáo dục phổ cập trung học cơ sở, tuy nhiên kết quả đạt được chưa thực sự vững chắc. Chương trình phổ cập giáo dục tiểu học đã hoàn thành cách đây 10 năm nhưng đến năm 2010 các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng mới đạt phổ cập giáo dục tiểu học nói chung, chưa đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi. Điều kiện dạy và học ở bậc mầm non và phổ thông các cấp còn thiếu thốn. Đây chính là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng bỏ học của học sinh phổ thông trong những năm qua tuy có giảm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ khá cao. Thống kê cho thấy, năm 2011 - 2012, 15 tỉnh miền núi phía Bắc có 9.790 học sinh bỏ học, trong đó nhiều nhất là học sinh trung học phổ thông có 6.795, trung học sơ sở có 2.682 (một số tỉnh có học sinh bỏ học nhiều của vùng này là: Bắc Kạn và Hà Giang). Lực lượng lao động có trình độ đại học, cao đẳng của vùng thấp so với cả nước, chỉ chiếm 1,2% trong khi trung bình của cả nước là 12%[140;106]. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến trình độ dân trí của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc còn hạn chế, dẫn đến chưa thực sự phát huy tốt vai trò chủ thể của đồng bào trong việc thực hiện những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước nói chung và nhiệm vụ giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS trong vùng nói riêng.
Do đó, trong thời gian tới, cần tiếp tục nhân rộng mô hình phát triển giáo dục gắn với tình hình thực tế của địa phương để góp phần nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào các DTTS để đồng bào thực sự phát huy tốt vai trò chủ thể của mình.
4.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc
Trong quá trình phát triển VH vùng đồng bào các DTTS, Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương cũng đã rất nỗ lực trong việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS thông qua các nhiệm vụ cụ thể. Bản thân đồng bào các DTTS cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy BSVH của DT mình và cũng đang nỗ lực tham gia vào nhiệm vụ đó. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan mà hiệu quả đạt được từ vấn đề này chưa cao. Do đó, cần thiết phải nhìn nhận vấn đề một cách khách quan trên cơ sở những yếu tố đặc thù vùng miền để đưa ra những giải phù hợp trên cơ sở quán triệt những quan điểm nhằm nâng cao hiệu quả giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc. Những giải pháp đó tập trung vào chủ thể giữ gìn, phát huy đó là Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương, các cơ quan, cán bộ chuyên môn và bản thân đồng bào các DTTS.
4.2.1. Nâng cao chất lượng và đa dạng hóa hình thức, nội dung giáo dục, tuyên truyền về việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số
BSVH các DTTS nói chung và BSVH hóa các DTTS vùng Đông Bắc nói riêng được ví như một rừng hoa ngập tràn sắc hương. Mỗi một loài hoa có vẻ đẹp riêng, có hương thơm riêng tạo nên giá trị riêng - bản sắc riêng cho mình. Bản sắc ấy có vai trò quan trọng, nền tảng vững chắc - điểm tựa tinh thần cho mỗi DT tồn tại và phát triển trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Tuy nhiên, không phải trong mọi giai đoạn, cái hay, cái đẹp, cái giá trị trong BSVH các DTTS đều được nhận thức đúng và việc giữ gìn, phát huy nó được thực hiện tốt. Do đó, rất cần thiết phải có sự tuyên truyền sâu rộng đến toàn xã hội về BSVH các DTTS và việc giữ gìn, phát huy nó trong thời đại hiện nay - thời đại phát triển kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Thông qua việc tuyên truyền, quán triệt trong các cấp ủy Đảng và chính quyền cơ sở về vai trò, trách nhiệm đối với công tác giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS, trên cơ sở chủ trương, đường lối chung của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương, các ngành chức năng cần cụ thể hóa gắn với đặc điểm tình hình riêng của vùng miền, địa phương, cơ sở để có
những giải pháp phù hợp. Tránh sự cứng nhắc, khô cứng, thiếu linh hoạt mà ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác giữ gìn, phát huy.
Các cấp ban ngành, cơ quan chuyên môn tại địa phương cần đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền nhằm giáo dục cho đồng bào các DTTS hiểu về BSVHDT mình. Bởi “vô tri bất mộ” - không thấu hiểu hết cái hay, cái đẹp của BSVHDT mình thì không thể yêu mến, trân trọng, giữ gìn và quảng bá cái hay, cái đẹp ấy ra được. Có thể nói, đây là giải pháp quan trọng nhất trong số các giải pháp. Bởi lẽ, khi nói đến việc giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS thì chủ thể của nó không ai khác chính là con người có ý thức. Nếu không có nhận thức đúng, không hiểu được giá trị độc đáo của BSVHDT mình thì sẽ không có những hành động đúng và có thể xảy ra theo hai xu hướng cực đoan, đó là coi VH truyền thống là lạc hậu, là cổ hủ, là mê tín dị đoan - là sản phẩm của xã hội cũ nên chối bỏ, phủ nhận, đoạn tuyệt với nó, tiếp nhận cái mới lạ trong quá trình giao lưu - hội nhập dẫn đến mất gốc, mất bản sắc. Xu hướng thứ hai đó là coi trọng tất cả những gì trong VH truyền thống là tốt nên khư khư bảo vệ, giữ gìn nguyên xi, kể cả nó lỗi thời, lạc hậu, cản trở, kìm hãm sự phát triển. Do đó, rất cần sự tuyên truyền, giáo dục của các cấp ban ngành, chính quyền địa phương, đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm công tác VH ở cơ sở qua nhiều hình thức đa dạng, phong phú.
Thứ nhất, thông qua phương tiện thông tin đại chúng: Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay thì các phương tiện thông tin đại chúng có tác động nhanh, mạnh đến việc truyền tải thông tin. Hệ thống thông tin này bao gồm các phương tiện: phát thanh, truyền hình, internet, sách vở, báo chí… Các phương tiện thông tin này có vai trò quan trọng trong việc cung cấp những kiến thức cơ bản về tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, giáo dục, y tế, VH, kể cả những chương trình giải trí đến với đồng bào các DTTS, nó cũng là phương tiện kết nối các tỉnh, các vùng, các nước, các khu vực, các DT lại với nhau. Điều đó góp phần gia tăng sự đoàn kết DT và nâng cao nhận thức, sự hiểu biết của đồng bào về tất cả các lĩnh vực trong đó có vấn đề giữ gìn, phát huy BSVH.
Trong các phương tiện thông tin trên, tuyên truyền qua đài phát thanh và
truyền hình tại các bản làng, thôn xóm là có hiệu quả mạnh nhất, vì nó trực tiếp và gần gũi nhất với đồng bào. Do đó, cần chuẩn bị nội dung phù hợp, tăng tần suất và thời lượng phát sóng, đặc biệt sử dụng ngôn ngữ DT trong quá trình tuyên truyền vừa tăng hiệu quả của việc tuyên truyền, vừa trực tiếp giữ gìn ngôn ngữ trong chính đời sống của cộng đồng. Các kênh truyền hình của địa phương thường xuyên phát sóng những chương trình về ca ngợi những nét đẹp trong BSVH các DTTS ở địa phương mình để từ đó hình thành cho đồng bào ý thức tự hào DT, tự hào với những nét đẹp trong VH truyền thống của cha ông để lại và có ý thức giữ gìn, phát huy trong đời sống hiện đại.
Các ấn phẩm báo chí của nhà nước và địa phương phát hành nên tăng cường bổ sung hơn nữa những chuyên mục về giới thiệu và ca ngợi BSVH các DTTS ở địa phương và lưu hành rộng rãi đến các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn để đồng bào nơi đây có cơ hội tiếp cận được những thông tin hữu ích trong việc tìm hiểu về chính BSVH của DT mình, địa phương mình. Với hệ thống internet và cáp quang mới chủ yếu phổ biến ở thành phố, thị xã, thị trấn và các vùng nông thôn giáp ranh, còn các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn thì chưa được tiếp cận. Đây là một sự thiệt thòi trong việc tiếp cận những tri thức mới trong lĩnh vực VH cũng như trong tất cả các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, đối với các vùng đã phổ biến thì nó cũng có tác động hai mặt: Một mặt, nó đem đến cơ hội cho đồng bào được tiếp cận những giá trị VH mới của quốc tế, khu vực, quốc gia và các DT khác trong cộng đồng các DT Việt Nam, từ đó, nâng cao khả năng học hỏi, tiếp thu những giá trị chung của nhân loại để làm giàu có thêm BSVH của DT mình. Mặt khác, chính điều đó cũng đặt đồng bào các DTTS vào tình thế khó có thể duy trì được bản sắc khi các yếu tố ngoại lai được hỗ trợ bởi phương tiện hiện đại đã tác động nhanh, mạnh vào giới trẻ, tầng lớp thanh niên, làm cho họ thay đổi cách nghĩ, cách làm, cách cảm… dẫn đến lệch lạc trong suy nghĩ, hành vi, phản nghịch với những giá trị truyền thống - cái làm nên bản sắc được tôn tạo, duy trì, tiếp nối qua bao thế hệ. Do đó, cần phải tuyên truyền sâu rộng đến tầng lớp này để họ nhận ra những giá trị tốt đẹp trong VH truyền thống của DT mình, từ đó, họ tiếp nhận cái mới một cách chủ động, tích cực thông qua màng lọc là BSVH của DT mình.
Thứ hai, thông qua hệ thống giáo dục quốc dân: Ngoài tuyên truyền thông qua hệ thống thông tin đại chúng, các cấp ban ngành cần kết hợp với việc truyên truyền thông qua hệ thống trường lớp với chủ thể tuyên truyền là các thầy cô giáo và tổ chức đoàn thanh niên trong nhà trường. Nhà trường cần bố trí trong chương trình học những tiết vừa đảm bảo kiến thức chung vừa cung cấp thêm những kiến thức về BSVH các DTTS trên địa bàn. Các trường học từ cấp mầm non cũng nên giáo dục, truyền dạy, những bài hát, bài múa, của đồng bào các DTTS trong các chương trình văn nghệ của nhà trường và các hội thi văn nghệ các cấp, qua đó, góp phần giáo dục cho các em ngay khi còn nhỏ những giá trị VH đặc sắc trong kho tàng VH nghệ thuật của đồng bào các DTTS. Các nhà trường, nhất là các trường ở thị trấn, thành phố nên thường xuyên tổ chức các buổi ngoại khóa thăm quan bảo tàng tại các địa phương, thăm quan, trải nghiệm trong các làng VH du lịch, làng VH cộng đồng, để các em cảm nhận được những nét đẹp trong VH của đồng bào các DTTS trong thực tế. Từ đó, hình thành trong các em lòng tự hào DT, ý thức bảo bệ BSDT ngay từ khi còn nhỏ.
Tại các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp, đoàn thanh niên và hội sinh viên ở các nhà trường này nên thành lập các câu lạc bộ của từng DTTS, các câu lạc bộ này thường xuyên có những hoạt động trong việc giữ gìn, khơi dậy, lan tỏa BSVH tộc người trong những hoạt động ngoại khóa.
Thứ ba, tuyên truyền thông qua các hoạt động VH ở địa phương: Một hình thức nữa cần được thực hiện để tuyên truyền mọi tầng lớp tham gia vào việc giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc đó là, thông qua các hoạt động VH văn nghệ ở địa phương, các hội thi văn nghệ, các ngày hội VH các DTTS các cấp (toàn quốc, vùng, tỉnh, huyện), qua triển lãm ở bảo tàng địa phương… Ngày hội VH các DTTS ở các cấp chính là ngày đồng bào phô diễn những nét đẹp trong VH truyền thống của DT mình thông qua những bộ trang phục lộng lẫy, những điệu múa, bài hát truyền thống say đắm lòng người, tái diễn lại những phong tục tập quán đậm đà giá trị nhân văn, mang đậm bản sắc tộc người. Từ đó, đồng bào các DTTS tự hào hơn về BSVH của DT mình. Họ sẽ có ý thức gìn giữ và phát huy nó tốt hơn trong đời sống và trao truyền qua các thế hệ.