2.2.4. Cơ cấu giống vải trồng ở Lục Ngạn
Hiện nay trên địa bàn huyện có gần 30 giống vải các loại bao gồm tập đoàn vải của Úc, Thái Lan,Trung Quốc và Việt Nam. Trong sản xuất có 4 giống vải chính đó là:
- Lai Chua: Có thời gian thu hoạch sớm từ 6/5 đến 16/5 hàng năm.
Đặc điểm của giống này là quả chua, năng suất đạt 39 tạ/ha.
và hạt to, khoảng 35-40 quả/kg, quả ăn
- U Hồng: Có thời gian thu hoạch từ 10/5 đến 25/5. Đặc điểm của giống này là quả to, khoảng 30 - 35 quả/kg, quả tròn, gai nhẵn, ngọt, dễ
tiêu thụ, hiện đang được mở chính vụ.
rộng sản xuất thay một phần diện tích vải
- Lai Thanh Hà: Có thời gian thu hoạch từ 25/5 đến 5/6, hiện nay
giống vải không phát triển do hiệu quả kinh tế không cao.
- Giống vải Thanh Hà (chính vụ): Có thời gian thu hoạch từ 28/5 đến 10/7 hàng năm. Đặc điểm của giống này là chùm sai, khoảng 40-50 quả/kg, chất lượng thơm ngon, mẫu mã đẹp, hạt nhỏ, cùi dầy, là giống chiếm tỷ trọng lớn > 81% diện tích và sản lượng lớn.
Bảng 2.7 : Cơ cấu diện tích các giống vải ở huyện Lục Ngạn
giai đoạn 2004- 2006
ĐVT: ha
Các năm | So sánh ( % ) | |||||
2004 | 2005 | 2006 | 05/04 | 06/05 | Bình quân | |
Lai Chua | 145 | 145 | 140 | 100,00 | 96,55 | 98,26 |
U Hồng | 810 | 2.072 | 3.198 | 255.80 | 154,34 | 198,70 |
Lai Thanh Hà | 300 | 300 | 290 | 100,00 | 96,67 | 98,32 |
Thanh Hà | 12.307 | 16.675 | 15.584 | 135,49 | 93,5 | 112,53 |
Tổng | 13.562 | 19.192 | 19.212 | 141,51 | 100,1 | 119,02 |
Có thể bạn quan tâm!
- Diện Tích Và Sản Lượng Vải Của Một Số Nước Trên Thế Giới
- Tình Hình Đất Đai Của Huyện Lục Ngạn Giai Đoạn 2004-2006
- Thực Trạng Phát Triển Sản Xuất Vải Ở Huyện Lục Ngạn
- Diện Tích, Năng Suất Và Sản Lượng Các Giống Vải Ở Điểm Điều Tra Năm 2006
- Kết Quả Và Hqkt Sản Xuất Vải Ở Điểm Điều Tra Năm 2006
- Kết Quả Và Hiệu Quả Kinh Tế Sản Xuất Vải Ở 3 Xã Điều Tra Năm 2006
Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.
Nguồn: Báo cáo phòng kinh tế huyện Lục Ngạn
Qua bảng 2.7 cho thấy bình quân qua 3 năm tổng diện tích cây vải
tăng 18, 96 % tương ứng với mức tăng 5.630 ha. Năm 2005 so với năm
2004 tăng 35,49 % tương ứng với mức tăng 5.630 ha. Năm 2006 so với năm 2005 đạt 100%.
- Giống vải Lai Chua: Bình quân qua 3 năm giảm 1,74 tương ứng với mức giảm 5 ha. Năm 2005 so với năm 2004 diện tích không thay đổi, đạt 100 %. Năm 2006 so với năm 2005 giảm 3,45 % tương ứng với mức giảm 5 ha.
- Giống vải U Hồng: Bình quân qua 3 năm tăng 98,70%, tương ứng với mức tăng 2.388 ha. Năm 2005 so với năm 2004 tăng 155,8 %, tương ứng với mức tăng 1.262 ha. Năm 2006 so với năm 2005 tăng 54,34 % tương ứng với mức tăng 1.126 ha.
- Giống vải Lai Thanh Hà: Bình quân qua 3 năm giảm 1,68 %, tương ứng với mức giảm 10 ha.
- Giống vải Thanh Hà: Bình quân qua 3 năm tăng 12,53 %. Trong đó năm 2005 so với năm 2004 tăng 35,49 %, năm 2006 so với năm 2005 tăng
0,1%.
0. 73%
16. 65%
1. 51%
81. 10%
Lai Chua
U Hồng
Lai Thanh Hà
Thanh Hà
Biểu đồ 2.1. Cơ cấu các giống vải ở huyện Lục Ngạn năm 2006
2.2.5. Tình hình tiêu thụ vải ở Lục Ngạn
Tiêu thụ vải quả đóng vai trò hết sức quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của người sản xuất. Theo số liệu thống kê của huyện Lục Ngạn thì hàng năm có khoảng 48% tiêu thụ ở dạng quả tươi, còn lại
52% tiêu thụ ở
dạng chế
biến như
sấy khô, đóng hộp, rượu vang.... Thị
trường tiêu thụ xuất khẩu.
sản phẩm bao gồm thị
trường trong nước và thị
trường
Theo một số nhà quản lý, người kinh doanh sản phẩm vải quả ở Lục
Ngạn cho biết: Khoảng 55% sản lượng vải tươi được tiêu thụ ở thị trường
thành phố Hồ Chí Minh, 15 % được tiêu thụ ở một số thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Nam Định, Thanh Hoá, Nghệ An….còn lại 30% được xuất khẩu sang các nước Trung Quốc, Lào, Campuchia, Pháp, Đức, Thái Lan. Tuy nhiên các thị trường trên yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường rất khắt khe nên việc xuất khẩu vải quả vào thị trường này trong những năm qua còn rất ít.
Như
vậy, tiêu thụ
sản phẩm vải ở
Lục Ngạn đã từng bước hình
thành lên những thị
trường tiêu thụ
riêng. Điều này phần nào giúp người
sản xuất yên tâm hơn trong quá trình đầu tư thâm canh cho cây vải. Tuy
nhiên, do chất lượng sản phẩm không đồng đều, thời gian thu hoạch ngắn,
công nghệ
cho bảo quản, chế biến còn lạc hậu là những trở
ngại không
nhỏ đến quá trình tiêu thụ sản phẩm vải quả ở Lục Ngạn.
2.2.5.1. Giá vải trên địa bàn huyện Lục Ngạn biến động qua các năm
Giá vải là một trong những yếu tố quyết định đến hiệu quả kinh tế
của cây vải. Ở mỗi thời điểm khác nhau thì giá vải cũng biến động lên
xuống cũng khác nhau, năm 2004 giá vải chín sớm U Hồng lúc đầu vụ từ
5.000 đ – 6.000 đ/kg , đối với giống vải Lai Chua có thời điểm xuống thấp chỉ có 800 – 1.000 đ/kg. Năm 2006 giá vải U Hồng thời điểm đầu vụ lên đến 12.500 đ/kg, song cuối vụ chỉ còn 7.000 đ/kg. Giá bình quân của các giống vải trong những năm qua được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.8. Tình hình biến động giá vải quả tươi ở Lục Ngạn
giai đoạn 2004 - 2006
ĐVT: đồng/kg
Các năm | So sánh ( % ) | |||||
2004 | 2005 | 2006 | 05/04 | 06/05 | Bình quân | |
Lai Chua | 2.000 | 4.000 | 5.000 | 200 | 125 | 158,11 |
U Hồng | 5.000 | 7.000 | 10.000 | 140 | 142,86 | 141,42 |
Lai Thanh Hà | 2.000 | 4.500 | 6.000 | 225 | 133,33 | 173,21 |
Thanh Hà | 2.500 | 5.000 | 7.000 | 200 | 140 | 167,33 |
Nguồn: Phòng kinh tế huyện Lục Ngạn
Qua bảng 2.8 cho thấy, trong 3 năm 2004 – 2006 giá các giống vải liên tục tăng, mức tăng của từng giống vải cụ thể như sau:
- Đối với giống vải Lai Chua: Bình quân qua 3 năm giá vải tăng 58,11%. Trong đó năm 2005 so với năm 2004 giá vải quả tăng 200%, tương đương với mức tăng 2.000 đồng/kg, giá năm 2006 so với năm 2005 tăng 25%, tương ứng với mức tăng 1.000 đồng/kg.
- Đối với giống vải U Hồng: Giá vải bình quân qua 3 năm tăng 41,42%. Trong đó giá năm 2005 so với năm 2004 tăng 40,0%, năm 2006 so
với năm 2005 tăng 41,42%.
- Đối với giống vải Lai Thanh Hà, Thanh Hà giá vải bình quân qua 3 năm đều tăng lần lượt là 73,20% và 67,33%.
Nguyên nhân giá vải các năm liên tục tăng là do năm 2004 là năm có điều kiện thời tiết thuận lợi nên sản lượng vải của không những huyện Lục Ngạn mà của các huyện khác trong tỉnh đều tăng lên, tiêu thụ gặp khó khăn nên giá bán thấp. Năm 2004, nam 2005 do điều kiện thời tiết khó khăn, giai đoạn hoa nở mưa kéo dài làm ảnh hưởng đến thụ phấn hoa, ở giai đoạn quả nhỏ thì lại nắng nóng, khô hạn kéo dài làm cho sản lượng vải giảm xuống thấp nên việc tiêu thụ rất thuận lợi, giá bán lại tăng.
Lai Chua U Hồng Lai Thanh Hà Lanh Hà
10000
8000
6000
4000
2000
0
2004
2005
2006
Đồ thị 2.1 So sánh giá vải quả tươi giữa các giống ở Lục Ngạn giai đoạn 2004 - 2006
Qua đồ thị 2.1. cho thấy giá vải quả tươi giai đoạn 2004 – 2006 đều tăng lên. Giá giống vải U Hồng là cao nhất, sau là Thanh Hà, Lai Thanh Hà và thấp nhất là Lai Chua.
2.2.5.2 Mô phỏng kênh tiêu thụ vải ở huyện Lục Ngạn
Hiện tại chưa có nghiên cứu nào về tiêu thụ vải trên địa bàn huyện. Hơn nữa huyện cũng chưa theo dõi và quản lý được việc tiêu vải của người sản xuất. Vì thế từ quan sát thực tế chúng tôi mô phỏng kênh tiêu thụ vải theo các kênh như sau:
Người
thu gom
Người
sản
xuất vải
Người bán lẻ
Người bán buôn
Người bán lẻ
Người bán lẻ
Người tiêu dùng
Sơ đồ 2.1: Kênh tiêu thụ vải quả tươi ở huyện Lục Ngạn
Phần này chúng tôi đi sâu tìm hiểu hoạt động kinh doanh của các thành phần buôn bán trung gian chính như: Người thu gom, chủ buôn. Qua đó để thấy được tính tích cực và hạn chế của nó. Trong đó nhiệm vụ của các thành phần tham gia như sau:
- Người thu gom: Chủ yếu là người địa phương, họ có thể là người trong 1 gia đình hoặc một số người liên kết với nhau thu mua sản phẩm vải
của người sản xuất sau đó đóng hộp, giao hàng cho các chủ buôn lớn ở
ngoại tỉnh đến mua buôn. Tùy thuộc vào qui mô hoạt động, điều kiện vốn của từng người, có nhóm thu mua lên đến 70 tấn vải quả/ngày nhưng có nhóm chỉ thu mua đến 10 –12 tấn vải quả/ngày.
- Người bán buôn: Thực tế hiện nay, những người có vốn, có điều kiện họ tìm đủ mọi cách để mở rộng hoạt động kinh doanh của mình để
tăng thêm thu nhập. Khác với đối tượng thu gom, những chủ buôn có thể là người địa phương hoặc người nơi khác. Địa bàn hoạt động của họ tương đối rộng, không những ở trong nước mà còn cả nước ngoài (Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan…).
- Người bán lẻ: Là người trực tiếp bán hàng cho người tiêu dùng, hoạt động của người bán lẻ vải tươi chủ yếu theo thời vụ thu hoạch vải.
2.2.6. Tình hình chế biến, bảo quản vải ở Lục Ngạn
Vải thiều là loại quả
đặc sản ở
Lục Ngạn và có tiềm năng lớn,
nhưng hiện nay công nghiệp chế biến còn rất bất cập, chủ yếu sấy khô bằng phương pháp thủ công. Do đó chất lượng sản phẩm thấp, hiệu quả kinh tế chưa cao. Hiện nay trong huyện đã có 2 đơn vị là Công ty cổ phần chế biến thực phẩm xuất khẩu Lục Ngạn và hợp tác xã chế biến hoa quả Kim Biên với 2 dây chuyền công nghệ chế biến hoa quả đã và đang hoạt
động, hàng năm đã chế
biến được hàng trăm tấn sản phẩm đồ
hộp sản
xuất từ nguyên liệu vải thiều, dứa và dưa chuột, làm rượu vang vải thiều, vang dứa, v.v…Ngoài ra, nhân dân trong huyện và ngoài huyện đã đầu tư vốn, kỹ thuật xây dựng hơn 2.000 lò thủ công để sấy vải. Hàng năm sản lượng vải ngoài việc tiêu thụ quả tươi thì còn được chế biến. Sản lượng vải được đưa vào chế biến qua các năm được thể hiện ở bảng 2.9.
Bảng 2.9. Sản lượng vải được chế biến ở Lục Ngạn giai đoạn 2004 - 2006
ĐVT | Năm 2004 | Năm 2005 | Năm 2006 | So sánh ( % ) | |||
2005 /2004 | 2006 /2005 | Bình quân | |||||
1. Sản lượng vải quả thu hoạch | Tấn | 75.10 8 | 44.608 | 52.500 | 59,39 | 117,69 | 83,61 |
2. Sản lượng sử dụng để sấy khô | Tấn | 45.06 5 | 22.304 | 27.321 | 49,49 | 122,49 | 77,86 |
% | 60 | 50 | 52 | 83,33 | 104 | 93,10 |
Nguồn: Phòng kinh tế huyện Lục Ngạn
Qua bảng 2.9 cho thấy: Sản lượng vải quả thu hoạch bình quân qua 3 năm giảm 16,39%. Trong đó sản lượng vải năm 2005 so với năm 2004 giảm 40,61%, năm 2006 so với năm 2005 tăng 17,69%.
Sản lượng sử dụng để sấy khô bình quân qua 3 năm giảm 22,14%.
Trong đó sản lượng vải sấy khô năm 2005 giảm so với năm 2004 là 50,51%, năm 2006 so với năm 2005 sản lượng vải quả sử dụng để sấy khô lại tăng 22,49%.
Tỷ lệ sử dụng để sấy khô bình quân qua 3 năm giảm 0,7%. Trong đó tỷ lệ sấy khô năm 2005 so với năm 2004 giảm 16,67%, năm 2006 so với năm 2005 tăng 0,4%.
2.3. THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VẢI Ở ĐIỂM ĐIỀU TRA
2.3.1. Điều kiện sản xuất vải của các nhóm hộ nông dân năm 2006
Để đánh giá khách quan thực trạng sản xuất vải ở Lục Ngạn trong thời gian qua thì ngoài việc tìm hiểu tình hình sản xuất chung của toàn huyện, chúng tôi đã tiến hành điều tra thu thập số liệu ở 3 xã Phượng Sơn,
Giáp Sơn và Tân Mộc. Thông tin sơ 2.10.
bộ của các hộ
được mô tả ở
bảng
Bảng 2.10. Tình hình cơ bản của các hộ điều tra tại 3 xã đại diện
huyện Lục Ngạn
ĐVT | Tính theo xã | Bình quân chung | |||
Phượn g Sơn | Giáp | S Tân ơ Mộc n | |||
1. Số hộ điều tra | Hộ | 50 | 50 | 50 | 50 |