nhằm thực hiện các nghiệp vụ khác của ngân hàng. Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng ngày càng mở rộng sẽ tạo uy tín của ngân hàng càng cao, các ngân hàng chủ động trong hoạt động kinh doanh.
NHTM huy động vốn dưới các hình thức sau:
Tiền gửi: tiền gửi của khách hàng là tài nguyên quan trọng, chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng.
- Tiền gửi thanh toán
- Tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp
- Tiền gửi tiết kiệm của các tầng lớp dân cư
Có thể bạn quan tâm!
- Thực trạng hoạt động cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội – Chi nhánh Huế - 1
- Thực trạng hoạt động cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội – Chi nhánh Huế - 2
- Sơ Đồ Quy Trình Cho Vay Của Ngân Hàng Thương Mại
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hoạt Động Cho Vay Khách Hàng Cá Nhân Của Ngân Hàng Thương Mại.
- Thực Trạng Cho Vay Khách Hàng Cá Nhân Tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Quân Đội
Xem toàn bộ 91 trang tài liệu này.
- Tiền gửi của các ngân hàng khác
Nguồn đi vay
- Vay từ NHNN
- Vay từ các tổ chức tín dụng và NHTM khác
- Vay trên thị trường vốn
- Nguồn uỷ thác
Một số hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHNN: như phát
hành các loại giấy tờ có giá trị...
1.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn
Mục tiêu đặt ra trong quá trình sử dụng vốn của ngân hàng thương mại là làm sao để sử dụng vốn hiệu quả nhất nhằm tìm kiếm lợi nhuận tối đa từ số tiền đã huy động được và giảm tối đa rủi ro. Bởi vậy, việc cho vay hay đầu tư để sinh lời từ tiền đã huy động được là lẽ sống còn của ngân hàng thương mại. Hơn nữa, ngân hàng phải nghiên cứu và đưa ra các chiến lược sử dụng vốn của mình sao cho hợp lý nhất.
Các hình thức sử dụng vốn của ngân hàng:
- Cho vay: Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của NHTM. Các loại cho vay có thể phân loại nhiều cách, bao gồm: mục đích, hình thức bảo đảm, kỳ hạn, nguồn gốc và phương thức hoàn trả.
- Đầu tư: đi đôi với phát triển của xã hội là sự xuất hiện của hàng loạt những nhu cầu khác nhau. Với tư cách là một chủ thể hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, đòi hỏi ngân hàng phải luôn nắm bắt được thông tin, đa dạng các nghiệp vụ để cung cấp đầy đủ vốn cho nền kinh tế. Có 2 hình thức đầu tư chủ yếu là:
+ Đầu tư vào mua bán kinh doanh các chứng khoán hoặc đầu tư góp vốn vào các doanh nghiệp, các công ty khác.
+ Đầu tư vào các trang thiết bị TSCĐ phục vụ cho hoạt động kinh dooanh của ngân hàng.
- Cho thuê tài chính
- Đầu tư tiền gửi vào các tổ chức tài chính khác
- Dự trữ bắt buộc: dự trữ vốn nhằm đảm bảo an toàn về khả nnawng thanh toán và thực hiện các quy định về dự trữ bắt buộc do Trung ương đề ra.
- Cơ chế quản lý vốn tập trung
1.1.3.3. Hoạt động khác
Ngoài hai hoạt động cơ bản trên các ngân hàng còn thực hiện một số hoạt động khác như:
- Dịch vụ trong thanh toán: Có thể nói ngân hàng là thủ quỹ của nền kinh tế. Khách hàng là các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế sẽ không phải mất thời gian sau khi mua hoặc bán hàng hoá và dịch vụ bởi việc thanh toán sẽ được ngân hàng thực hiện một cách nhanh chóng và chính xác.
- Dịch vụ tư vấn, môi giới: Ngân hàng đứng ra làm trung gian mua bán chứng
khoán, tư vấn cho người đầu tư mua bán chứng khoán, bất động sản...
- Các dịch vụ khác: Ngân hàng đứng ra quản lý hộ tài sản; giữ hộ vàng, tiền; cho thuê két sắt, bảo mật...
1.1.4.Chức năng của ngân hàng thương mại
1.1.4.1. Chức năng trung gian
Ngân hàng thương mại đóng vai trò là “cầu nối” giữa người dư thừa vốn với người có nhu cầu vay vốn. Đây cũng là chức năng quan trọng nhất của NHTM. NHTM dùng tiền gửi của người dư thừa vốn (người gửi) sau đó đem đi đầu tư hay cho người có nhu cầu vay, có thể nói NHTM vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Hoạt động này tạo ra lợi ích đối với các bên tham gia:
Đối với người gửi tiền: họ thu lại một khoản lời từ số tiền nhàn rỗi tạm thời từ lãi suất tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa, ngân hàng cũng đảm bảo cho sự an toàn đối với tiền gửi.
Đối với người vay tiền: họ tiết kiệm một khoản thời gian lớn để tìm kiếm nguồn tiền để vay và họ có thể thỏa mãn được nhu cầu vay vốn phục vụ cho kinh doanh hay tiêu dùng hàng ngày.
Đối với NHTM: có được một khoản lợi nhuận từ sự chênh lệch về lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi.
Đối với nền kinh tế: thúc đẩy sự phát triển kinh tế vì đảm bảo được nguồn vốn đảm bảo cho việc sản xuất và tái sản xuất liên tục.
1.1.4.2. Chức năng trung gian thanh toán
Với chức năng trung gian thanh toán, ngân hàng dựa trên cơ sở thực hiện chức năng trung gian tín dụng vì để thực hiện thanh toán qua ngân hàng khách hàng phải gửi một số tiền trước đó. Khi khách hàng yêu cầu thanh toán, ngân hàng sẽ trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Ở đây ngân hàng thương mại đóng vai trò là người "thủ quỹ" cho các doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là người giữ tài khoản của họ.
Thông qua chức năng này, khách hàng không phải mang theo tiền mặt bên người, đặc biệt là khi phải mang theo số tiền lớn, giúp họ tiết kiệm được thời gian thanh toán và cũng an toàn hơn. Mặt khác, chức năng trung gian tài chính giúp cho ngân hàng tăng thêm một khoản lợi nhuận bằng các khoản phí giao dịch mà khách hàng yêu cầu.
1.1.4.3. Chức năng tạo tiền
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM là chức năng trung gian và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Ngân hàng thương mại tạo tiền phụ thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng trung ương đã áp dụng đối với NHTM. Do vậy, ngân hàng trung ương có thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền vào nền kinh tế lớn. Chức năng tạo tiền là một chức năng qua trọng, phản ánh rò bản chất của NHTM.
1.2. Tổng quan về hoạt động cho vay khách hàng cá nhân tại ngân hàng
thương mại
1.2.1. Khái niệm cho vay đối với khách hàng cá nhân
Cho vay là hình thức kinh doanh của ngân hàng bằng cách chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ NHTM (người sở hữu) cho khách hàng có lãi suất, sau một thời gian trở lại NHTM sẽ có lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Hay có thể hiểu cho vay là mối quan hệ giữa một bên là người cho vay (NHTM) chuyển giao tiêng hoặc tài sản cho người vay (khách hàng) với cam kết người vay phải trả đúng hạn, đúng cam kết cả gốc và lãi. Cho vay là một hoạt động truyền thống của ngân hàng nên khi nhắc đến vay tiền, vay vốn… người ta đều nghĩ ngay đến ngân hàng.
Tuy hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng cao, nguồn thu lợi nhuận lớn nhất của ngân hàng nhưng nó cũng có nguy cơ rủi ro cao nhất. Để ngân hàng tồn tại và phát triển vững chắc, hoạt động cho vay khách hàng phải hiệu quả và an toàn.
Theo Luật tổ chức tín dụng ngân hàng Việt Nam năm 2010: “Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một khoản thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi”.
Do đó, ta có thể hiểu tín dụng KHCN là mối quan hệ kinh tế giữa bên cho vay là NHTM với bên đi vay là KHCN, ngân hàng sẽ giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích đã xác định trong một khoảnh hời gian nhất định và khách hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi khi tới thời hạn thanh toán.Để cho KHCN vay, ngân hàng dựa trên các nguyên tắc sau:
- Thứ nhất, khách hàng vay vốn phải đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận. Điều này giúp hạn chế rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
- Thứ hai, khách hàng phải đảm bảo hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng.
- Thứ ba, ngân hàng cho vay đối với những dự án khả thi, có hiệu quả và có khả năng hoàn trả nợ. Nhờ đó, ngân hàng mới có được lợi nhuận từ việc cho vay.
1.2.2.Đặc điểm của cho vay khách hàng cá nhân
- Thứ nhất, đối tượng cho vay của hoạt động này là các cá nhân và hộ gia đình có nhu cầu vay nhằm mục đích sản xuất kinh doanh hay phục vụ cho tiêu dùng. KHCN thường có số lượng lớn, nhu cầu vay vốn rất đa dạng nhưng thông thường nhu cầu vay vốn của KHCN không thường xuyên và chịu sự ảnh hưởng lớn bởi môi trường kinh tế, văn hóa – xã hội.
- Thứ hai, quy mô cho vay đối với KHCN thường nhỏ: KHCN chỉ là các cá nhân và hộ gia đình nên khả năng chi trả sẽ thấp hơn các doanh nghiệp, hơn nữa các giá trị hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng của đối tượng khách hàng này ở mức vừa phải. Do đó, giá trị các khoản vay của những khách hàng này thường nhỏ. Tuy nhiên, số
lượng vay lại lớn vì số lượng KHCN lớn, nhu cầu vay vốn đa dạng nên tín dụng KHCN thường chiếm tỉ trọng lớn.
- Thứ ba, thời gian vay vốn của khách hàng cá nhân cũng ảnh hưởng tới lãi suất cho vay: thời gian vay vốn của cho vay KHCN bao gồm các khoản vay ngắn hạn, trung và dài hạn. Đối với những khoản vay bổ sung vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh thì thời hạn cho vay phù hợp với chu kì sản xuất kinh doanh của các nhân và hộ gia đình nên thời hạn vay chủ yếu là vay ngắn hạn. Còn đối với những khoản vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và hộ gia đình thì thời hạn vay thường là trung và dài hạn. Đối với các khoản cho vay ngắn hạn, lãi suất được ấn định ngay từ đầu và không thay đổi cho đến hết thời hạn vay. Đối với những khoản vay trung và dài hạn, lãi suất cho vay thường được điều chỉnh mỗi năm một lần dựa trên cơ sở lãi suất huy động, cộng với một biên độ nhất định tuỳ theo từng ngân hàng.
- Thứ tư, cho vay KHCN có chi phí lớn trong danh mục tín dụng của ngân hàng: ngân hàng phải bỏ ra rất nhiều nguồn lực và nhiều chi phí bởi các khoản vay này thường nhỏ nhưng số lượng vay lại lớn. Hơn nữa, việc cập nhật các thông tin cá nhân khó có thể đầy đủ và chính xác. Do vậy, ngân hàng phải thực hiện rất nhiều bước trong quá trình cho vay từ lúc tiếp nhận hồ sơ, thẩm định khách hàng, giải ngân cho đến lúc thu hồi nợ. Một nguyên nhân khác, hoạt động tín dụng KHCN ở nước ta mới phát triển trong những năm gần đây, nhiều hình thức vay còn khá mới mẻ đối với khách hàng nên ngân hàng phải tiến hành các chương trình quảng cáo giới thiệu sản phẩm để phát triển khách hàng, mở rộng thị phần, hoạt động này đã góp phần làm cho chi phí các khoản cho vay KHCN tăng thêm.
- Thứ năm, rủi ro trong hoạt động cho vay KHCN lớn bởi nguyên nhân sau:
+ Rủi ro về lãi suất. Đối với các khoản cho vay kinh doanh, ngân hàng và khách hàng thường có sự thỏa thuận áp dụng mức lãi suất thả nổi, tức là lãi suất được điều chỉnh theo từng kỳ hạn nhất định trong suốt thời hạn cho vay. Vì vậy, nguy cơ rủi ro về lãi suất đối với cho vay kinh doanh sẽ thấp hơn so với cho vay cá nhân.
+ Các yếu tố chủ quan và khách quan: Khả năng hoàn trả vốn vay đối với các khoản cho vay tiêu dùng phụ thuộc vào thu nhập của người đi vay. Tuy nhiên, đối với những khách hàng cá nhân có thể do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan mà họ không thể thực hiện trả nợ hoặc trì hoãn trả nợ, từ đó gây ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay của ngân hàng. Nhân tố chủ quan có thể là tình trạng “sức khoẻ” tài chính của người đi vay, công việc làm ăn không tốt … ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực tài chính của khách hàng, từ đó giảm khả năng thực hiện trả nợ của khách hàng. Các nhân tố khách quan như hạn hán, mất mùa, sự suy thoái của nền kinh tế dẫn đến khả năng mất việc cao… cũng là những nguy cơ ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả của khách hàng.
- Thứ sáu, lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay KHCN lớn: Lãi suất của các khoản cho vay khách hàng cá nhân phần lớn đều cao hơn các khoản cho vay khác của NHTM. Điều này xuất phát từ các khoản cho vay khách hàng cá nhân có chi phí cao và rủi ro cao nhất trong các loại cho vay của NHTM. Mức lợi nhuận từ trên mỗi khoản cho vay khách hàng cá nhân cao, số lượng lớn, vì vậy toàn bộ lợi nhuận thu về từ hoạt động này là đáng kể trong tổng thu nhập của NHTM.
1.2.3.Phân loại cho vay khách hàng cá nhân
Căn cứ vào thời hạn
Tín dụng ngắn hạn: Có thời hạn không quá 12 tháng.
Tín dụng trung hạn: Có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng. Tín dụng dài hạn: Có thời hạn cho vay lớn hơn 60 tháng.
Căn cứ vào đối tượng tín dụng
Tín dụng vốn lưu động: Là loại tín dụng được dùng hình thành vốn lưu động của các tổ chức kinh doanh
Tín dụng vốn cố định: Là loại tín dụng được dùng hình thành tài sản cố định.
Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn
Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: Là loại tín dụng dành cho các doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác để tiến hành sản xuất hàng hóa và lưu thông hàng hóa.
Tín dụng tiêu dùng: Là hình thức tín dụng dành cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm, xây dựng nhà cửa, mua xe ô tô trả góp, cho vay tài khoản thấu chi...
Căn cứ vào phương thức hoàn trả:
- Trả một lần: Khách hàng có thể trả nợ gốc một lần khi đáo hạn, thông thường
áp dụng cho các khoản vay có thời hạ từ một năm trở xuống (khoản vay ngắn hạn).
- Trả theo định kỳ: Khách hàng sẽ thực hiện trả nợ trên cơ sở cam kết kế hoạch trả nợ ban đầu khi tiến hành kí kết hợp đồng vay, trả hàng tháng, trả 3 tháng, trả 6 tháng 1 lần.
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng gồm hai loại: Tín dụng không có tài sản đảm bảo và tín dụng có tài sản đảm bảo
- Tín dụng không đảm bảo: Là loại tín dụng được cấp phát không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba mà hoàn toàn dựa trên uy tín của khách hàng vay vốn để quyết định cho vay.
- Tín dụng có đảm bảo: Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền vay như thế chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác.
1.2.4. Quy trình cho vay đối với khách hàng cá nhân của ngân hàng
thương mại
Quy trình cho vay tổng hợp các nguyên tắc cho vay, quy định của ngân hàng trong việc cho vay, mô tả công việc của ngân hàng từ khi nhận được hồ sơ vay vốn của khách hàng cho tới quyết định cho vay, giải ngân, giám sát khoản vay, thu hồi vốn và thanh lý hợp đồng vay vốn. Quy trình này bao gồm nhiều khâu và theo một quy trình nhất định. Quy trình cho vay gồm các bước sau:
Bước 1: Thiết lập hồ sơ
Tùy theo từng khoản vay với từng mục đích, CBTD hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ với những thông tin, yêu cầu khác nhau. Hồ sơ khách hàng bao gồm thông tin khách hàng và các loại giấy tờ khác theo yêu cầu của ngân hàng.