vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước, đã và đang tạo nên một thị trường nội địa hoạt động sôi động, đa dạng và nhiều màu sắc. Trong các trung tâm thương mại lớn như Diamond plaza, Parkson, Zen Plaza, các thương hiệu thời trang nổi tiếng trong và ngoài nước đã tập trung về đây. Trong đó có những thương hiệu lần đầu tiên có mặt tại Việt Nam như CK (Anh), Mo&Co (Pháp).... đã tạo nên các hiệu ứng không nhỏ đối với người tiêu dùng.
4. Các hệ thống phân phối bán lẻ
Khi nhu cầu của người tiêu dùng tăng lên, thị trường hàng hóa trở nên sôi động, các hệ thống bán lẻ cũng tự nó có những chuyển biến một cách rất tích cực để đáp ứng nhu cầu đó. Từ hệ thống bán lẻ truyền thống đến hệ thống hiện đại đều tăng đáng kể về cả số lượng và chất lượng.
4.1. Hệ thống chợ truyền thống:
Tính đến năm 2006, trên địa bàn cả nước có 7.676 chợ các loại (không tính các chợ hình thành tự phát). Trong đó, vùng Đồng bằng sông Hồng chiếm 19,1%, vùng Đông Nam Bộ chiếm 14,9%; Tây Bắc Bộ: 3,1%; Bắc Trung Bộ: 15,4%; Duyên hải Nam Trung Bộ: 10,8%; Tây Nguyên: 4,9%: Đông Nam bộ: 11,3%; Đồng bằng sông Cửu Long: 20,5%.
Chợ bán lẻ phục vụ dân sinh ở các xã, phường, thị trấn, thị tứ chiếm tỉ trọng lớn tới 91,5%. Chợ tổng hợp bán buôn, bán lẻ hạng I: chiếm 2,3%. Chợ đầu mối bán buôn nông sản; chiếm 0,6% tập trung nhiều ở Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng và Đông bắc bộ. Chợ biên giới, cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu: chiếm 1,9%, nhiều nhất là vùng Đông bắc bộ.
Bình quân chung của cả nước là 0,71 chợ/xã, phường, thị trấn. Khu vực phía Bắc (từ Bắc trung bộ trở ra) và vùng Tây Nguyên có mật độ chợ thấp so với mức chung của cả nước và so với khu vực phía nam.
Trên địa bàn cả nước, bình quân cứ 42,13km2 có một chợ hay bán kính phục vụ trung bình của một chợ là 3,66km. Có sự chênh lệch khá lớn về chỉ tiêu này giữa các vùng, các tỉnh. Vùng Đồng bằng sông Hồng có diện tích phục vụ trung bình một chợ nhỏ nhất, lớn nhất là vùng Đông bắc.
Khối lượng hàng hóa lưu thông qua chợ ở các thành phố lớn chiếm tỉ trọng khoảng 40-50% tổng mức lưu chuyển hàng hóa trên địa bàn. Ở khu vực nông thôn hàng hóa giao dịch trên chợ chiếm khoảng 60-70%.
Cơ cấu hàng hóa lưu thông khá phong phú và khác nhau trên mỗi chợ. Trung bình có khoảng 70-80% hộ kinh doanh các nhóm hàng chính; nông sản, thực phẩm, tạp hóa, may mặc, giầy dép. Trong đó hàng thực phẩm tươi sống chiếm tỉ trọng 35-40%7.
Lực lượng tham gia kinh doanh trên các chợ chủ yếu là thành phần thương mại tư nhân, thương mại nhà nước, hợp tác xã thương mại và người sản xuất trực tiếp bán hàng. Trong đó, thành phần thương mại tư nhân (dưới hình thức các hộ kinh doanh) đóng vai trò ngày càng quan trọng.
7 Bộ thương mại (2006), Dự án quy hoạch phát triển mạng lưới chợ toàn quốc đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
Bảng 3: Tổng hợp các chỉ tiêu về mạng lưới chợ trên cả nước đến năm 2006
Tổng số chợ năm 2005 | Chợ/ phường,thị trấn, xã | Diện tích bình quân/chợ (Km2) | Dân số/chợ | Bán kính phục vụ TB một chợ (km) | |
1. ĐB Sông hồng | 1.471 | 0,65 | 10,06 | 12.249,7 | 1,79 |
2. Đông bắc bộ | 1.146 | 0,55 | 55,33 | 8.120 | 4,2 |
3. Tây bắc bộ | 243 | 0,41 | 153,65 | 10.543,4 | 7,0 |
4. Bắc trung bộ | 1.184 | 0,65 | 43,47 | 8.958,68 | 3,72 |
5. DH Nam trung bộ | 830 | 0,96 | 39,46 | 8.408,16 | 3,55 |
6. Tây nguyên | 380 | 0,57 | 144,11 | 12.579,5 | 6,77 |
7. Đông Nam bộ | 828 | 0,84 | 39,75 | 15.391,4 | 3,56 |
8. ĐB sông Cửu long | 1.594 | 1,02 | 25,17 | 10,927,9 | 2,83 |
Toàn quốc | 7.676 | 0,71 | 42,66 | 10.759,95 | 3,69 |
Có thể bạn quan tâm!
-
Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt Nam - 1
-
Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt Nam - 2
-
Khái Quát Về Lĩnh Vực Phân Phối Bán Lẻ Của Việt Nam
-
Thị Trường Bán Lẻ Việt Nam Cần Được Phát Triển Hơn Phù Hợp Với Nhu Cầu Tiêu Dùng Của Người Dân
-
Tổng Mức Bán Lẻ Hàng Hóa Và Doanh Thu Dịch Vụ Tiêu Dùng Theo Các Khu Vực Kinh Tế Giai Đoạn 2002- 2005.
-
Mang Đến Những Phương Thức Quản Lý Và Trình Độ Tổ Chức Kinh Doanh Hiện Đại
Xem toàn bộ 98 trang tài liệu này.
Hiện có khoảng hơn 767.776 hộ kinh doanh cố định trên các chợ toàn quốc (chưa kể hộ kinh doanh không thường xuyên) với mức trung bình là 100 hộ kinh doanh cố định trên một chợ. Số hộ kinh doanh cố định bình quân trên một chợ vùng Đông nam bộ cao nhất và gấp 4 lần so với vùng thấp nhất là Tây bắc bộ.
Diện tích được xây dựng kiên cố chỉ đạt 24,5% so với tổng diện tích xây dựng chợ. Đặc biệt tại các Vùng duyên hải miền Trung, Đông Bắc. Tỉ trọng chợ xây dựng bằng lều, lán còn lớn, phổ biến ở các vùng ở mức trên 40%.
4.2. Hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại
Cùng với sự phát triển của hệ thống chợ, trong thời gian qua hệ thống siêu thị đã bắt đầu được hình thành và phát triển với một tốc độ khá nhanh ở nước ta. Nếu như trước năm 2000, số lượng các siêu thị, trung tâm thương mại chỉ xuất hiện "lác đác" ở hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thì nay đó trở nên phổ biến ở hai thành phố này và được đầu tư khá nhiều ở các tỉnh, thành phố khác trong cả nước.
Theo số liệu thống kê đến năm 2006, cả nước có 265 siêu thị, phân bố trên 32 tỉnh, thành phố trên cả nước. Tuy nhiên, các siêu thị, đặc biệt là siêu thị có quy mô lớn, vẫn chủ yếu tập trung ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh (trên 70%), Hải Phòng và Đà Nẵng chiếm số lượng siêu thị tương ứng là 4% và 2%. Các thành phố Thanh Hóa, Cần Thơ, Kiên Giang cũng có siêu thị chiếm 2% tổng số siêu thị trên cả nước8.
Về tính chất của hoạt động kinh doanh, có thể chia các siêu thị ở Việt Nam hiện nay làm hai loại chủ yếu là: siêu thị kinh doanh tổng hợp như Saigon Coopmart, Intimex, Metro, Big C... với số lượng mặt hàng có thể từ vài nghìn mặt hàng tới vài chục hoặc hàng trăm nghìn mặt hàng; và các siêu thị chuyên doanh như siêu thị dệt may (của Tập đoàn Dệt may Việt Nam - Vinatex), siêu thị điện máy, siêu thị điện lạnh, siêu thị thời trang...
Về nguồn vốn và chủ thể đầu tư các siêu thị ở Việt Nam thời gian qua cũng rất đa dạng. Nếu như trước năm 2000 chỉ có một vài siêu thị của các nhà đầu tư nước ngoài và một số doanh nghiệp lớn của nhà nước tham gia đầu tư kinh doanh siêu thị và các trung tâm mua sắm như Marko, SheiYu, Saigon Coopmart, FiviMart, Intimex... thì đến hết năm 2006 có thể thấy sự hiện diện
8 Bộ thương mại (2006), Đề án phát triển thương mại trong nước 2006-2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
của hầu hết các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào lĩnh vực này như các siêu thị Tràng Tiền Plaza, Trung tâm thương mại Vincom, Trung tâm thương mại Thuận Kiều.
Dựa trên tiêu chuẩn phân hạng siêu thị tại Quy chế siêu thị và Trung tâm thương mại của Bộ Thương mại ban hành năm 2004, phân loại các siêu thị hiện có ở Việt Nam đến năm 2006 thể hiện ở (Bảng 4).
Bảng 4: Tổng hợp số liệu về siêu thị trên cả nước đến năm 2006
Loại I | Loại II | Loại III | Không thuộc loại nào | Tổng | |
Hà Nội | 4 | 8 | 60 | 29 | 101 |
Tp. Hồ Chí Minh | 12 | 17 | 31 | 28 | 88 |
Các địa phương khác | 12 | 6 | 28 | 30 | 76 |
Tổng | 28 | 31 | 119 | 87 | 265 |
Tỉ trọng (%) | 10,6 | 11,7 | 44,7 | 33 | 100 |
Nguồn: Bộ Công Thương
4.3. Hệ thống cửa hàng bán lẻ tự chọn
Các loại hình cửa hàng bán lẻ, bán buôn tự chọn cũng tăng về số lượng và quy mô và phương thức hoạt động theo hướng chuyên nghiệp hơn. Mô hình "chuỗi" cửa hàng đó xuất hiện như các cửa hàng bán lẻ hàng may mặc của May 10, Việt Tiến, cửa hàng Bitis, Bitas bán giày dép... với sự hiện diện ở hầu hết các địa phương trên cả nước. Ở các đô thị, xu hướng liên kết, sát nhập, mở rộng các cửa hàng nhỏ, lẻ diễn ra khá mạnh. Xu hướng này sẽ tạo ra một sự thay đổi cơ bản trong quá trình hình thành, tích tụ vốn kinh doanh của các nhà phân phối này từ chỗ huy động đơn lẻ (từng
cá thể) sang hình thức góp vốn, vay vốn kinh doanh hay huy động vốn từ thị trường vốn.
Đáng chú ý là các cửa hàng bán lẻ tự chọn và các cửa hàng phân phối, bán lẻ theo phương thức nhượng quyền thương mại trên thực tế đã xuất hiện hơn 10 năm nay ở Việt Nam và ngày càng được giới thương nhân trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm. Hiện nay, cả nước đã có khoảng 70 hợp đồng nhượng quyền thương mại, trong đó Công ty Cà phê Trung Nguyên rất thành công với hơn 1.000 cửa hàng nhượng quyền trong và ngoài nước; Công ty An Nam mới triển khai hoạt động vài năm trở lại đây cũng đã phát triển được 12 cửa hàng theo hình thức nhượng quyền, Công ty Kinh Đô có hàng chục cửa hàng được nhượng quyền kinh doanh bánh Kinh Đô khắp cả nước…
Hiện nay nhiều công ty trong và ngoài nước đang có kế hoạch phát triển mạnh phương thức này trong thời gian tới. Trong đó đáng chú ý nhất là kế hoạch phát triển hệ thống phân phối của Công ty trách nhiệm hữu hạn G7 (G7 Mart). Theo đó, trong năm 2006 sẽ đưa 3.500 cửa hàng tiện lợi vào hoạt động và phấn đấu đến năm 2010 sẽ có tổng cộng 10.000 cửa hàng tiện lợi ra đời theo phương thức nhượng quyền.
4.4. Hệ thống các hộ kinh doanh nhỏ lẻ
Hiện tại ở Việt Nam ước tính có khoảng 900 nghìn cửa hàng bán lẻ, kinh doanh theo kiểu hộ cá thể. Hàng hóa kinh doanh của những cửa hàng này thông thường là những mặt hàng phục vụ nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của dân cư. Tuy nhiên, do khả năng về tài chính cũng như mặt bằng kinh doanh hạn chế nên hầu như các cửa hàng này chỉ cung cấp được một số ít hàng hóa có giá trị không cao. Mặc dù vậy, đây vẫn đang là một trong những kênh phân phối hàng hóa quan trọng tham gia vào thị trường bán lẻ của Việt Nam trong thời gian qua.
Như vậy, trong thời gian gần đây ở Việt Nam, lĩnh vực phân phối bán lẻ đã có những bước chuyển biến khá mạnh mẽ đã góp phần làm thay đổi cấu trúc và diện mạo thị trường trong nước theo hướng văn minh, hiện đại, phù hợp với xu hướng phát triển của khu vực và thế giới. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng vẫn chưa cân xứng với tiềm năng của thị trường, hệ thống phân phối bán lẻ trong nước vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân. Loại hình bán lẻ chủ yếu vẫn là các cửa hàng qui mô nhỏ, hoạt động độc lập. Mô hình siêu thị, trung tâm thương mại mới hình thành song tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh với số lượng doanh nghiệp tham gia còn ít, khoảng trên dưới 10 đơn vị, như: Sài Gòn Coop, Intimex, Citimart, Maximark, Fivimart…Đại bộ phận các siêu thị vẫn là qui mô nhỏ. Nếu như tỉ trọng doanh số bán lẻ qua hệ thống siêu thị ở Trung Quốc là 30 - 40 %, Thái Lan trên 40%, Singapore 60 - 70 % và Mỹ trên 90%,…thì ở Việt Nam hàng hoá đến người tiêu dùng chủ yếu vẫn qua hệ thống chợ (khoảng 40%) và qua hệ thống các cửa hàng bán lẻ truyền thống (khoảng 44%), qua hệ thống phân phối hiện đại (TTTM, siêu thị, cửa hàng tiện lợi,..) mới chỉ chiếm khoảng 10%, còn lại 6% là do nhà sản xuất trực tiếp bán thẳng9. Trong bối cảnh đất nước đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, lĩnh vực phân phối bán lẻ cần được quan tâm phát triển hơn nữa để thích ứng trong điều kiện mớ cửa nền kinh tế.
9 Bộ thương mại (2006), Đề án phát triển thương mại trong nước 2006-2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO LĨNH VỰC PHÂN PHỐI BÁN LẺ CỦA VIỆT
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI MỞ CỬA THU HÚT FDI VÀO LĨNH VỰC PHÂN PHỐI BÁN LẺ CỦA VIỆT NAM
1. Thực hiện cam kết gia nhập WTO
Cũng như các ngành dịch vụ khác, các cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ phân phối thể hiện mức độ mở cửa thị trường và mức độ đối xử quốc gia mà Việt Nam dành cho nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ phân phối tại Việt Nam.
Theo phân loại của WTO, dịch vụ phân phối được chia làm 4 phân ngành gồm: dịch vụ đại lý hoa hồng, dịch vụ bán buôn, dịch vụ bán lẻ, và dịch vụ nhượng quyền thương mại. Cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ WTO đối với các phân ngành này cụ thể như sau:
Về các sản phẩm thuộc diện loại trừ:
Việt Nam không cam kết mở cửa thị trường các dịch vụ phân phối đối với các mặt hàng sau: thuốc lá và xì gà, sách, báo và tạp chí, vật phẩm đã ghi hình, kim loại quí và đá quí, dược phẩm (không bao gồm các sản phẩm bổ dưỡng phi dược phẩm dưới dạng viên nén, viên con nhộng hoặc bột), thuốc nổ, dầu thô và dầu đã qua chế biến, gạo, đường mía và đường củ cải.
Ngoài ra, trong từng phân ngành, sẽ có thêm một số sản phẩm khác mà Việt Nam đưa ra những hạn chế nhất định. Cụ thể là: kể từ thời điểm Việt Nam gia nhập WTO, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng sẽ không được phép cung cấp dịch vụ bán buôn, dịch vụ bán lẻ và dịch vụ đại lý hoa hồng đối với các sản phẩm sau: xi măng và clinke, lốp (trừ lốp máy bay), giấy, máy kéo, phương tiện cơ giới, ô tô con và xe máy, sắt thép, thiết bị nghe nhìn, rượu, phân bón. Tuy nhiên, từ ngày 01 tháng 01 năm 2009, các sản phẩm máy kéo, phương