tập huấn rất hạn chế: Chỉ gồm cán bộ LĐTBXH cấp xã, thị trấn và chuyên viên phụ trách chính sách ưu đãi đối với người có công cấp huyện. Từ đó đến nay không có đợt tập huấn nào và cũng không mở thêm lớp tuyên truyền về Pháp lệnh ưu đãi đối với người có công dẫn đến số người biết chính sách ưu đãi đối với người có công rất hạn chế. Công tác tuyên truyền vì thế cũng gặp nhiều khó khăn, bất cập.
Ba là, việc thực hiện chi trả trợ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng.
Hiện nay việc chi trả trợ cấp ưu đãi hàng tháng đã được thực hiện trực tiếp đến tận tay các đối tượng thụ hưởng tại Ủy ban nhân dân xã, thị trấn, tuy nhiên người có công thì ngày càng lớn tuổi, nhiều người không thể đi lại được để nhận trợ cấp ưu đãi phải ủy quyền cho người thân đi nhận thay. Tuy nhiên, thời gian ủy quyền chỉ là 03 tháng, như vậy sau 03 tháng người có công lại phải đến ủy ban nhân dân các xã, thị trấn để làm giấy ủy quyền lại hoặc sẽ bị đình chỉ nhận trợ cấp. Những trường hợp này rất khó khăn cho người có công.
Việc chi trả trợ cấp 01 lần, chi trả trợ cấp khác cho người có công, thân nhân người có công vẫn còn gặp khó khăn như là: Hiện nay mỗi dịp Lễ, Tết đối tượng được chi trả trợ cấp rất lớn và nhiều nguồn ngân sách như: Ngân sách Trung ương chi trả theo Quyết định của Chủ tịch nước; ngân sách Tỉnh chi trả theo Chủ trương của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh; ngân sách huyện chi trả theo chủ trương của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh huyện. Ngoài ra, còn có nhiều mạnh thường quân ủng hộ để tặng quà cho người có công, nhưng số tiền chi trả thực tế cho từng đối tượng lại nhỏ và lẻ nên xảy ra hiện tượng số lượng đối tượng đi nhận đúng thời điểm cấp phát tại các điểm cấp chế độ không đủ do chưa thỏa đáng dẫn đến việc thanh quyết toán còn gặp khó khăn.
Bốn là việc thanh tra, kiểm tra, giám sát.
Thông thường từ 1- 2 năm, phòng Lao động – Thương binh và Xã hội sẽ tổ chức đi kiểm tra việc thực hiện chi trả trợ cấp, thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng tại Ủy ban nhân dân tỉnh xã, thị trấn trên địa bàn huyện từ đó tham mưu Ủy ban nhân dân huyện ra văn bản biểu dương khen thưởng các đơn vị làm tốt công tác chính sách ưu đãi đối với người có công, đôn đốc, chấn chỉnh
nhắc nhở các đơn vị chưa kịp thời làm tốt, làm chưa đúng với các văn bản hướng dẫn. Từ năm 2016 đến năm 2020 Sở Lao động – Thương binh và Xã hội có tiến hành kiểm tra 03 đợt tại huyện Ea Kar và Ủy ban nhân dân một số xã trên địa bàn, tuy nhiên việc thanh tra, kiểm tra trong thời gian ngắn nên khó phát hiện sai phạm.
Công tác giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện Ea Kar và các tổ chức thành viên rất hạn chế, trong suốt thời gian từ năm 2016 đến năm 2020 không có trường hợp nào Mặt trận tổ quốc huyện và các tổ chức thành viên phát hiện hoặc kiến nghị về chính sách ưu đãi đối với người có công và gửi đến Ủy ban nhân dân tỉnh huyện giải quyết.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Người Có Công Trên Địa Bàn Huyện Ea Kar, Tỉnh Đắk Lắk
- Phân Công, Phối Hợp Thực Hiện Chính Sách Ưu Đãi Người Có Công
- Số Liệu Cấp Thẻ Bhyt Cho Người Có Công Và Thân Nhân Người Có Công Trên Địa Bàn Huyện Ea Kar, Tỉnh Đắk Lắk
- Các Giải Pháp Tăng Cường Thực Hiện Chính Sách Ưu Đãi Người Có Công Trên Địa Bàn Huyện Ea Kar, Tỉnh Đắk Lắk
- Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Thực Hiện Chính Sách
- Thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng trên địa bàn huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk - 12
Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.
Vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân đối với hoạt động thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công cũng rất hạn chế.
Việc giám sát của nhân dân đối với hoạt động thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công cũng không cao, trong thời gian vừa qua cũng không phát hiện sai phạm hoặc có kiến nghị nào đối với Ủy ban nhân dân tỉnh huyện về chính sách ưu đãi đối với người có công.
Năm là, đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng.
Trên địa bàn huyện Ea Kar hiện nay có 16 xã, thị trấn trong đó có 09 người có trình độ cử nhân, 03 người có trình độ cao đẳng, 04 người có trình độ trung cấp. Chuyên viên phụ trách chính sách ưu đãi đối với người có công tại huyện có trình độ cử nhân.
Tuy nhiên, những người có trình độ cử nhân, cao đẳng, trung cấp hầu hết là không đúng ngành nghề và không đúng chuyên ngành được đào tạo.
Ngoài ra, đội ngũ Cán bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thường xuyên thay đổi dẫn đến khó khăn trong quá trình giải quyết hồ sơ, cập nhật hồ sơ và quản lý đối tượng.
Cán bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cấp xã ngoài việc giải quyết hồ sơ ưu đãi đối với người có công vừa phải giải quyết hồ sơ bảo trợ xã hội, quản lý lao động, trẻ em, bình đẳng giới cùng với các nhiệm vụ mà ngành Lao động –
Thương binh xã hội quản lý trên địa bàn, một số cán bộ còn kiêm thêm công tác xóa đói giảm nghèo hoặc nhiều nhiệm vụ khác do chủ tịch ủy ban nhân dân các xã, thị trấn giao phó dẫn đến giải quyết hồ sơ không kịp thời.
2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Một là, hệ thống văn bản quy phạm của Nhà nước đối với người có công còn chưa đồng bộ, các văn bản hướng dẫn còn chưa cụ thể, thậm chí là chồng chéo, mâu thuẫn với nhau. Hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách đối với người có công thay đổi nhiều, chưa thống nhất. Trình tự, thủ tục thực hiện các chính sách ưu đãi về đất đai, nhà ở, thuế, tín dụng, y tế, giáo dục cho người có công chưa được thể chế hóa kịp thời cũng tạo nên khó khăn cho cán bộ thụ lý giải quyết hồ sơ ở bộ phận “một cửa”.
Hai là, các văn bản quy định điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận người có công còn một số điểm chưa cụ thể, chưa phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội. Điều kiện xác nhận liệt sỹ, thương binh, bệnh binh mới chỉ quy định chung là “dũng cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân”, “dũng cảm đấu tranh chống tội phạm” chưa xác định rõ tính chất, mức độ của hành động “dũng cảm”. Bên cạnh đó, một số chế độ ưu đãi đối với người có công không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay. Pháp lệnh Ưu đãi người có công hiện hành cũng đã bộc lộ một số hạn chế như: mức trợ cấp hàng tháng đối với người có công thấp, chưa tương xứng với mức sống chung của các tầng lớp dân cư hiện nay.
Ba là, các cơ quan, đoàn thể ít quan tâm và thụ động trong quá trình giải quyết các chính sách liên quan đến người có công, các đơn vị chỉ tham gia vào các hoạt động chủ yếu là thăm hỏi gia đình người có công trong các dịp Lễ, Tết. Công tác phối hợp, kiểm tra, giám sát và nắm bắt, hỗ trợ đời sống cho người có công của các đơn vị còn hạn chế. Hiện nay chưa có đơn vị nào nhận hỗ trợ hoặc giúp đỡ, đỡ đầu đối với gia đình người có công thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn.
Bốn là, năng lực thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức thực hiện chính sách đối với người có công trên địa bàn huyện còn có những hạn chế. Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thương binh, xã hội còn ít, phần nhiều không được đào
tạo đúng chuyên ngành. Một số cán bộ làm công tác Lao động Thương binh và Xã hội tại các xã, thị trấn huyện đang là lao động hợp đồng, kiêm nhiệm nhiều việc và cũng còn trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác này. Một bộ phận cán bộ, công chức của huyện chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của công tác thương binh - liệt sỹ, còn thờ ơ, chưa tận tụy với công việc. Công tác lao động – thương binh và xã hội là công việc vất vả, khó khăn, đòi hỏi sự nhiệt tình, say mê nhưng chế độ đãi ngộ, khen thưởng đối với cán bộ cơ sở hiện nay thấp, chưa tạo động lực làm việc cho cán bộ, công chức.
Tiểu kết chương 2
Chương 2 luận văn đã tiến hành đánh giá tình hình thực hiện chính sách cho người có công trên địa bàn huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2016-2020 trên các nội dung: Xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện chính sách, phổ biến tuyên truyền chính sách, phân công phối hợp thực hiện chính sách, đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm. Đồng thời trên cơ sở các tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện chính sách cho người có công được làm rõ tại Chương 1, Luận văn phân tích kết quả để chỉ ra được những kết quả đạt được và hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế trong việc thực hiện chính sách cho người có công trên địa bàn huyện trong thời gian qua.
Đây là cơ sở để đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách cho người có công trên địa bàn huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới.
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN EA KAR, TỈNH ĐẮK LẮK
3.1. Định hướng thực hiện chính sách ưu đãi người có công trên địa bàn huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2021-2030
Phát huy những thành tựu đạt được, khắc phục kịp thời những tồn tại, hạn chế trong thời gian qua về thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng tại huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk để nâng cao hiệu quả thực việc thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng trong thời gian tới, cần quán triệt các quan điểm sau:
Thứ nhất, hoàn thiện việc thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng phải trên cơ sở quán triệt quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về người có công với cách mạng.
Trong Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã nêu rõ, đó là: “Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia đình có công.
Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về chính sách người có công, đặc biệt là người tham gia hoạt động bí mật, lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong trong các thời kỳ cách mạng và kháng chiến. Tạo điều kiện, khuyến khích người và gia đình có công tích cực tham gia phát triển kinh tế để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, có mức sống cao hơn mức sống trung bình của dân cư tại địa bàn”.[22, Tr 15].
Như vậy, Đảng ta đã thể hiện rõ quan điểm, đường lối đối với người có công với cách mạng, không chỉ là mới đây, mà chính sách đối với người có công là một trong những chính sách ưu tiên, xuyên suốt quá trình cách mạng của Đảng và Nhà nước ta. Ngay từ những ngày đầu non trẻ của chính quyền cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng và nêu lên những quan điểm cơ bản về ưu đãi người có công với cách mạng, hình thành chính sách ưu đãi thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ. Theo Người: Thương binh, bệnh binh, gia đình quân nhân, gia đình liệt sĩ là những
người có công với Tổ quốc với nhân dân. Cho nên, bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ họ. Cụ thể hoá quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành, bổ sung, sửa đổi nhiều văn bản pháp luật ưu đãi đối với người có công, khắc phục một số bất hợp lý, giải quyết một khối lượng lớn công việc do hậu quả của chiến tranh để lại, hình thành một hệ thống văn bản pháp quy có hiệu lực thực hiện thống nhất trong cả nước, phục vụ cho yêu cầu của giai đoạn mới.
Cùng với sự đổi mới của đất nước khi thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, công tác ưu đãi đối với người có công với cách mạng được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Văn kiện các Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, XIX, XI, XII trong thời kỳ đổi mới của đất nước đã xác định rõ: Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, và quan tâm chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng... vừa là trách nhiệm của Nhà nước, vừa là trách nhiệm của nhân dân...
Công tác thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng được Đảng định hướng và chỉ đạo các cấp, các ban, ngành chức năng phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện nghiêm túc các chính sách, chế độ của Đảng và Nhà nước đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và gia đình có công với cách mạng, tìm nhiều biện pháp tích cực nhằm giải quyết công ăn việc làm, ổn định đời sống, chăm sóc con em, bố mẹ liệt sĩ già yếu cô đơn; đặc biệt, cần thể hiện tinh thần ưu tiên, ưu đãi chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ trong khi thực hiện các chính sách kinh tế, văn hoá, xã hội của Đảng và Nhà nước; đảm bảo đời sống cho những người có công với đất nước và cách mạng; bồi dưỡng và tạo điều kiện cho con em người có công với cách mạng tiếp nối sự nghiệp của cha anh.
Thứ hai, xã hội hóa hoạt động ưu đãi đối với người có công với cách mạng, thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa ba chủ thể Nhà nước, đối tượng người có công với cách mạng và cộng đồng, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Phải trở thành thế kiềng ba chân: Nhà nước - cộng đồng và bản thân đối tượng người có công nỗ lực vươn lên. Phương châm này luôn là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt trong công tác ưu đãi người có công với cách mạng.
Ngoài kinh phí trợ cấp của Nhà nước, chúng ta cần tăng cường vai trò, trách nhiệm của các Hội, đoàn thể, tổ chức, cá nhân thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với thế hệ cha anh đi trước, hăng hái giúp đỡ về nhiều mặt như là vật chất và tinh thần các chiến sĩ bị thương trong chiến tranh, tạo điều kiện để bản thân người có công và thân nhân của họ phát triển. Hơn nữa, sự đóng góp của cộng đồng là nguồn lực không thể thiếu để đạt mục tiêu của chính sách và bao giờ cũng là nguồn bổ sung phong phú để góp phần cùng Nhà nước chăm sóc tốt hơn, chu đáo hơn đời sống người có công.
Cùng với sự quan tâm chăm lo của Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội, đòi hỏi sự nỗ lực vươn lên của bản thân nhiều thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng nhằm phát huy truyền thống tốt đẹp, là tấm gương điển hình, tiêu biểu cho ý chí vươn lên, tinh thần vượt khó, trở thành những nhà quản lý, nhà khoa học giỏi, những doanh nhân thành đạt để tiếp tục noi gương cho thế hệ trẻ vừa góp phần giảm một phần khó khăn cho xã hội với tinh thần “Thương binh tàn nhưng không phế”. Những sự trợ giúp về vật chất hay tinh thần của Nhà nước, cộng đồng là có hạn so với nhu cầu, đòi hỏi của những người có công, nó chỉ nên là một động lực hay là một đòn bẩy để người có công dựa vào đó để nỗ lực học tập, rèn luyện, lao động, tự vươn lên thay đổi chính cuộc sống của mình.
Chính sự phấn đấu vươn lên xóa đói, giảm nghèo của họ mới là nhân tố quan trọng và quyết định tới việc thay đổi kinh tế của bản thân cũng như thân nhân người có công. Nếu thiếu sự phấn đấu này thì dù chính sách ưu đãi của Đảng và Nhà nước có ưu việt, sự giúp đỡ của cộng đồng có kịp thời đến đâu thì cũng không thể đem lại kết quả như mong muốn được.
Thứ ba, trong công tác thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng phải phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước. Chính sách ưu đãi người có công vốn là chính sách mang tính nhạy cảm chính trị - xã hội. Tuy
nhiên, cần có nhận thức hoàn thiện hệ thống chính sách ưu đãi người có công đảm bảo chế độ trợ cấp phải phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội. Đặc điểm có tính chất quy luật cơ bản là giữa các chính sách và sự phát triển kinh tế xã hội có biện chứng với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Việc nâng cao đời sống của dân cư nói chung, đời sống của các đối tượng người có công nói riêng và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao là mục tiêu cuối cùng của sự phát triển kinh tế. Hoặc nói theo cách khác phát triển kinh tế là cơ sở, điều kiện vật chất để hoàn thiện hệ thống chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng. Trước đây trong thời kỳ chiến tranh mặc dù Nhà nước đã có những cố gắng nhưng trong điều kiện kinh tế còn nghèo nàn nên quy chế, chế độ ưu đãi còn nhiều hạn chế. Đến nay, do cơ chế quản lý, nền kinh tế nước ta tăng trưởng khá ổn định, chúng ta đã có điều kiện để chăm lo, nâng cao đời sống của những người có công lao đối với đất nước và thực tế cho thấy thực hiện tốt chính sách người có công có tác dụng tích cực, thúc đẩy thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế, tạo cho đối tượng yên tâm, tin tưởng vào Nhà nước, xã hội, cộng đồng. Tuy nhiên, một vấn đề mà chúng ta phải nhận thức rằng, trong việc ban hành, sửa đổi, bổ sung thệ thống chính sách của mình đối với người có công với cách mạng không thể thoát ly khả năng kinh tế, nếu với khả năng nền kinh tế hạn chế mà muốn thực hiện những mục tiêu vượt khả năng sẽ dẫn tới tình trạng duy ý chí, không thực hiện được.
Thứ tư, thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng phải đảm bảo tính toàn diện. Để thực hiện có hiệu quả các chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng, đưa ý chí và nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân trong việc “Đền ơn đáp nghĩa” những người có công với nước, đòi hỏi nhà nước phải ban hành đầy đủ các quy định của pháp luật liên quan đến người có công, nói cách khác phải có sự đồng bộ các loại văn bản pháp luật về vấn đề này. Đồng thời trong tổ chức triển khai thực hiện cũng phải cụ thể, đảm bảo đúng, đầy đủ đối tượng thuộc diện thụ hưởng, tránh hiện tượng bỏ sót đối tượng, chỉ khi đó mới thực hiện đầy đủ được sự công bằng xã hội.