Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước - 10


BLTTHS và tăng cường hướng dẫn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự theo hướng như sau:

Một là, trong tố tụng hình sự cần đưa ra khái niệm thống nhất về “quyền công tố” và “thực hành quyền công tố” để tạo cơ sở pháp lý cho việc nhận thức về vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của VKS.

Hai là, tranh tụng được quy định là một nguyên tắc trong xét xử được quy định tại Điều 103 Hiến pháp 2013 và Điều 26 BLTTHS năm 2015:“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Do đó cần thiết phải xây dựng các chế định làm rò nội dung, phạm vi, quyền hạn và trách nhiệm của VKS, Luật sư, Thẩm phán trong phiên tòa hình sự; trình tự thu thập và cung cấp chứng cứ của luật sư; nâng cao hơn nữa trách nhiệm KSV trong tranh tụng tại phiên tòa...nhằm đảm bảo cơ chế để hoạt động tranh tụng thực sự dân chủ. Đồng thời, cần có những quy định cụ thể và chi tiết hơn nữa về quyền và nghĩa vụ của KSV và người bào chữa trong quá trình tranh tụng, thúc đẩy sự chủ động tranh tụng của KSV và Luật sư.

Ba là, VKS là cơ quan duy nhất THQCT có trách nhiệm chứng minh sự thật của vụ án tại phiên tòa, bảo đảm sự buộc tội là có căn cứ. Tuy nhiên, BLTTHS quy định chủ tọa phiên tòa hỏi trước đã chuyển trách nhiệm chứng minh tội phạm của VKS sang Tòa án, Điều 307 BLTTHS năm 2015 quy định:“Chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi”. Như vậy, BLTTHS chưa tạo điều kiện để KSV phát huy tính chủ động, tích cực và trách nhiệm của bên buộc tội trong thực hiện chức năng tố tụng của mình. Để VKS thực hiện tốt công tác THQCT cần sửa đổi quy định trên theo hướng phát huy tính chủ động, tích cực của bên buộc tội, bên bào chữa trong hoạt động xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, tạo điều kiện để KSV kiểm tra công khai những chứng cứ đã thu thập được trong giai đoạn điều tra, nên quy định KSV và người bào chữa xét hỏi là chủ yếu, trong đó KSV phải là người xét hỏi đầu tiên, đến người bào chữa hỏi đối với bị cáo, người làm chứng, người bị hại,...HĐXX lắng nghe, tổng hợp kết quả xét hỏi và trả lời của các bên tham gia tố tụng, khi cần thiết HĐXX có thể yêu cầu KSV hoặc


người bào chữa hỏi thêm, trình bày thêm những vấn đề cần chứng minh trong vụ án. HĐXX chỉ hỏi khi cần thiết, khi thấy có nội dung chưa được làm rò.

Sửa đổi quy định khoản 2 Điều 307 BLTTHS cho phù hợp về việc chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý với quy định, KSV, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi trước, chủ tọa phiên tòa hỏi; bổ sung vào khoản 2 Điều 322 BLTTHS về quy định căn cứ “đối đáp đến cùng” khi KSV phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa... Do đó, các cơ quan tư pháp ở Trung ương cần khẩn trương tiếp tục ban hành văn bản hướng dẫn các quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật TTHS và các quy định còn có vướng mắc khác

Bốn là, cần sửa đổi các quy định liên quan đến THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong BLTTHS 2015 trên các nội dung:

- Sửa đổi quy định về việc VKS rút quyết định truy tố: Theo Điều 285 Bộ luật TTHS hiện hành: " Khi xét thấy có một trong các căn cứ quy định tại Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự thì Viện kiểm sát rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án” [35]. Tôi đồng tình với một số tác giả là quy định này chưa phù hợp, chưa bảo đảm tính độc lập của VKS trong THQCT. Bởi vì, khi VKS rút quyết định truy tố thì điều đó cũng đồng nghĩa với việc chấm dứt việc THQCT. Do đó, cần phải sửa đổi quy định này theo hướng khi VKS rút quyết định truy tố thì đồng thời VKS có quyền đình chỉ vụ án. Tương tự như vậy, để khẳng định rò vai trò của VKS là cơ quan duy nhất THQCT thì cần sửa đổi một số quy định tại Điều 248 của BLTTHS theo hướng: Tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, KSV có thể rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố, trong trường hợp rút toàn bộ quyết định truy tố, vụ án phải được đình chỉ, nếu rút một phần quyết định truy tố thì Tòa án chỉ xét xử phần còn lại.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.

- Về giới hạn xét xử của Tòa án: Không nên quy định Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật, xử


Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước - 10

khác với tội danh mà VKS đã truy tố theo quy tại Điều 298 BLTTHS năm 2015. Việc quy định như vậy đã cho phép Tòa án buộc tội theo hướng nặng hơn VKS đã truy tố, gây bất lợi cho bị cáo, vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội. Mặt khác, mỗi khoản quy định trong Bộ luật hình sự là một trường hợp phạm tội với những tình tiết định khung khác nhau, với những nội dung cần chứng minh khác nhau, theo đó các khoản quy định trong một điều luật thường quy định hình phạt theo hướng nặng hơn, thậm chí khung hình phạt là tử hình đòi hỏi phải thực hiện quy định riêng về quyền bào chữa, điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền bào chữa của bị cáo. Khi Tòa án xét xử về một tội mà VKS không buộc tội thì bản thân Tòa án đã làm cả chức năng buộc tội, trái với chức năng của Tòa án là cơ quan xét xử, trọng tài phán xử, lúc đó việc xét xử của Tòa án không còn đảm bảo tính vô tư, khách quan mà luôn thiên định bị cáo có tội theo tội nặng hơn. và cũng trái với quan điểm của Đảng về việc phân định rành mạch các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự.

Năm là, để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động tranh tụng tại các phiên tòa hình sự, theo tác giả cần tiến hành đồng bộ các giải pháp khác nhau gồm các giải pháp pháp lý, các giải pháp về tổ chức, các giải pháp về con người, các giải pháp vật chất – kỹ thuật, có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ thỏa đáng phù hợp với hoạt động đặc thù của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán…Các giải pháp này liên quan chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau, là tiền đề và điều kiện để tiến hành các giải pháp kia và ngược lại đạt hiệu quả cao.

Tóm lại, các giải pháp về hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS hiện hành liên quan đến hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự có ý nghĩa quan trọng, góp phần thiết thực vào quá trình tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật; giải quyết các vấn đề vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự nói chung và vụ án xâm phạm sở hữu nói riêng; cải cách hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trong công tác.

- Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho Ngành kiểm sát nhân dân: Nhằm xây dựng Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp


quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”, Đảng và Nhà nước cần quy định chính sách tiền lương, đãi ngộ phù hợp cho cán bộ, KSV, bảo đảm điều kiện để họ có thể nuôi sống bản thân, gia đình, an tâm công tác; trang bị thêm phương tiện đi lại thực thi công vụ, trang bị thêm nhiều máy tính xách tay để tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động nghiệp vụ, các thiết bị để phục vụ việc ghi âm, ghi hình... theo yêu cầu của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.

3.3 . Các giải pháp khác

- Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, sự giám sát của Hội đồng nhân dân ở địa phương: Lãnh đạo VKSND huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước cần nâng cao nhận thức về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp nói chung và công tác của Ngành Kiểm sát nói riêng; tiếp tục chỉ đạo thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Cấp ủy Đảng cần chú trọng lãnh đạo về công tác cán bộ, lựa chọn những cán bộ có tâm có tầm, bản lĩnh, tâm huyết để bố trí vào các chức vụ lãnh đạo trong cơ quan tiến hành tố tụng; quan tâm công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nguồn nhằm đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế.

- Nâng cao năng lực, đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành đối với hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm: Lãnh đạo VKSND huyện Chơn Thành cần tăng cường kiểm tra, đánh giá kết quả THQCT của KSV trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói chung, vụ án xâm phạm sở hữu nói riêng theo đúng quy định pháp luật và Quy chế của Ngành Kiểm sát. Việc kiểm tra, đánh giá phải làm thường xuyên, để kịp thời phát hiện những thiếu sót, sai phạm của KSV để nhắc nhở, chấn chỉnh nhằm nâng cao chất lượng giải công tác. Đồng thời, VKSND cần chủ động phối hợp chặt chẽ với Tòa án trong việc tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm liên quan đến các vụ án xâm phạm sở hữu nhất là những vụ án có nhiều bị cáo, có tính chất phức tạp, bị cáo không nhận tội, có sự tham gia của luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, giúp KSV trao dồi kỹ năng, năng lực THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm


phạm sở hữu. Sau phiên tòa, lãnh đạo đơn vị phải kịp thời tổ chức họp rút kinh nghiệm, đánh giá khách quan, toàn diện các hoạt động nghiệp vụ của KSV tại phiên tòa như việc thẩm vấn, tranh tụng, xử lý tình huống phát sinh tại phiên tòa...tập trung làm rò những tồn tại, hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới. Đây là một hoạt động quan trọng, là biện pháp tự đào tạo và đào tạo lại nghiệp vụ cho Kiểm sát viên.

- Nâng cao năng lực thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu:

Thứ nhất, nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm sở hữu: Chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa phụ thuộc rất nhiều vào các chứng cứ (nhất là vật chứng, kết quả định giá, giám định) thu thập được ở giai đoạn điều tra, giúp cho KSV nắm chắc các tình tiết, nội dung của vụ án. Để nắm bắt được thái độ tâm lý, KSV tiếp xúc trực tiếp với bị can ở giai đoạn điều tra, giúp KSV có thể dự kiến những vấn đề sẽ phát sinh tại phiên tòa, dự thảo luận tội, dự kiến nội dung đối đáp, tranh luận có chất lượng.

Thứ hai, nâng cao kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án của KSV: Khi được phân công THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu, Kiểm sát viên VKSND huyện Chơn Thành phải tập trung nghiên cứu hồ sơ vụ án, trích cứu hồ sơ, ghi chép cụ thể, tỉ mỉ những chứng cứ buộc tội, gỡ tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, dân sự, xử lý vật chứng và sao chụp, photocoppy lại những chứng cứ quan trọng như: biên bản khám nghiệm hiện trường, thu giữ vật chứng, kết luận định giá, giám định...sắp xếp các tài liệu trong hồ sơ một cách khoa học để đối chiếu, so sánh để loại trừ những nội dung không hợp lý, chắt lọc các nội dung hợp lý để phân tích, đánh giá một cách tổng hợp về các tình tiết liên quan đến vụ án. Tại phiên toà, KSV chủ động được trong việc viện dẫn chứng cụ thể, chính xác.

Đối với những vụ án phức tạp, nhiều bị cáo thì KSV cần nghiên cứu một cách khoa học để tổng hợp các chứng cứ (phân loại theo nhóm chứng cứ), xác định vai trò của từng bị cáo trong vụ án để thuận lợi cho việc xét hỏi, luận tội và tranh luận tại phiên tòa. KSV phải nhạy bén để phát hiện những mâu thuẫn trong các lời khai, chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội đối với bị cáo để có biện pháp khắc phục kịp thời.


Thứ ba, nâng cao kỹ năng trình bày cáo trạng của KSV tại phiên tòa: Khi đọc cáo trạng, KSV phải đứng dậy, hướng về phía những người tham dự phiên tòa, khi thấy bị cáo ngồi thì phải đề nghị Chủ tọa phiên tòa cho đứng dậy để nghe cáo trạng. KSV phải thông qua nguyên văn cáo trạng, giọng đọc to, rò ràng, mạch lạc, chính xác, ngắt câu đúng lúc, đúng chỗ. Sau khi đọc cáo trạng, KSV có thể trình bày ý kiến bổ sung để làm rò thêm nhưng không được làm thay đổi nội dung cáo trạng đã truy tố.

Thứ tư, nâng cao chất xây dựng đề cương xét hỏi và kỹ năng xét hỏi của KSV tại phiên tòa: Trước khi tham gia phiên tòa, KSV phải dự thảo đề cương xét hỏi đối với bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác để làm rò nội dung của vụ án như: hành vi, thời gian, địa điểm, động cơ, mục đích, hậu quả, phương tiện, thủ đoạn phạm tội, vật chứng thu giữ; làm rò ý thức chủ quan của bị cáo đối với một số hành vi hay thủ đoạn phạm tội để qua đó định tội danh chính xác.

Ví dụ như để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, bị cáo biết hành vi của mình là lén lút hay không để phân biệt tội Trộm cắp tài sản với tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản; tính chất hành vi có dùng vũ lực hay đe đọa dùng vũ lực, dùng ngay tức khắc hay sẽ dùng để phân biệt tội Cướp tài sản với tội Cưỡng đoạt tài sản. Mục đích việc dùng vũ lực của bị cáo khi thực hiện hành vi trộm cắp, cướp giật bị phát hiện là để chiếm giữ tài sản hay để trốn khỏi khi bị bắt giữ nhằm phân biệt tội phạm có chuyển hóa từ tội trộm cắp tài sản sang tội Cướp tài sản, hay chỉ là tình tiết định khung “hành hung để tẩu thoát”; dự kiến những tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa như khả năng phản cung của bị cáo, thái độ tâm lý, thay đổi lời khai của những người tham gia tố tụng; dự kiến những tài liệu, chứng cứ đưa ra để đấu tranh với bị cáo, trích đọc lời khai của bị cáo...Nội dung các câu hỏi phải ngắn gọn, rò ràng, dễ hiểu, không đặt các câu hỏi dụ cung, mớm cung.

Tại phiên tòa, KSV phải tập trung lắng nghe, theo dòi, đối chiếu với những câu hỏi của thành viên HĐXX, những câu hỏi HĐXX đã hỏi thì KSV không phải lặp lại. Khi phát sinh các tài liệu mới tại phiên tòa, KSV phải kiểm tra và xét hỏi về nguồn gốc, nội dung để có kết luận về tính hợp pháp, có căn cứ của tài liệu đó; nếu


chưa đủ điều kiện kết luận mà nó có thể làm thay đổi sự thật khách quan của vụ án thì KSV đề nghị HĐXX hoãn phiên toà để xác minh, làm rò.

Thứ năm, nâng cao chất lượng xây dựng dự thảo luận tội của KSV: Luận tội của KSV là quan điểm của VKS về tội trạng của bị cáo nhằm bảo vệ cáo trạng đã truy tố. Do đó, nội dung luận tội phải có tính thuyết phục cao, vừa có tình vừa có lý, vừa mang tính giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe, phòng ngừa tội phạm. Trước khi tham gia phiên tòa, KSV phải dự thảo luận tội, nội dung bản luận tội phải bám sát cáo trạng đã truy tố, nhưng không phải sao chép, lặp lại nội dung của cáo trạng. Dự thảo luận tội phải căn cứ vào các chứng cứ, vật chứng, lời trình bày của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác. Tại phiên tòa, qua kết quả xét hỏi nếu có những vấn đề mới cần bổ sung thì Kiểm sát viên phải bổ sung bản luận tội cho phù hợp.

Khi phân tích, đánh giá chứng cứ đối với vụ án có bị cáo phạm nhiều tội thì KSV phải phân tích từ bị cáo phạm tội có khung hình phạt nặng đến tội nhẹ hơn; phải phân tích vai trò của từng bị cáo theo hướng bị cáo có vai trò chủ mưu cầm đầu trước rồi đến vai trò các bị cáo khác theo hướng giảm dần về thái độ tích cực của bị cáo trong việc cùng tham gia thực hiện tội phạm; trách nhiệm, hậu quả, nhân thân, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự từng bị cáo; đồng thời, xem xét đối chiếu với các quy định của pháp luật hình sự để cân nhắc lựa chọn điều, khoản của BLHS để đề nghị Toà án áp dụng chính xác theo thứ tự: đề nghị hình phạt chính, hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng và bồi thường thiệt hại (nếu có).

Thứ sáu, nâng cao kỹ năng tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Trước khi tham dự phiên tòa, KSV phải dự kiến những vấn đề cần tranh luận như: đánh giá chứng cứ, tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, thiệt hại do tội phạm gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, nhân thân bị cáo, nguyên nhân và điều kiện phạm tội, những điểm mâu thuẫn trong hồ sơ vụ án, vai trò của bị cáo trong đồng phạm...Chuẩn bị lý lẽ để bác bỏ những quan điểm không đúng của bị cáo, người bào chữa trên cơ sở viện dẫn chứng cứ để chứng minh, bảo vệ quan điểm truy


tố; đồng thời, cập nhật đầy đủ các văn bản pháp luật cần thiết có liên quan đến vụ án để khi cần trích đọc hoặc viện dẫn chính xác.

Tại phiên tòa, KSV phải lắng nghe, tổng hợp các lời trình bày của bị cáo, những người tham gia tố tụng khác để nắm được nội dung vấn đề, chủ động chọn từng vấn đề để tranh luận. KSV phải nắm vững những quy định của pháp luật tố tụng hình sự, bình tĩnh, linh hoạt trong xử lý tình huống, tôn trọng sự thật khách quan của vụ án. Để đảm bảo tranh luận của KSV đạt chất lượng, VKSND huyện Chơn Thành cần lựa chọn và tổ chức các phiên tòa hình sự rút kinh nghiệm để nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nhất là đối với các vụ án xâm phạm sở hữu.

Thứ bảy, nâng cao kỹ năng phát hiện vi phạm để kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án: Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là quyền năng pháp lý quan trọng của VKSND. KSV được phân công THQCT tại phiên tòa phải thực hiện tốt việc kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án, phải xem xét nội dung bản án về tội danh, khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.... Phát hiện kịp thời những vi phạm trong bản án, quyết định của Tòa án, báo cáo lãnh đạo xem xét, quyết định việc kháng nghị hay không kháng nghị. Hình thức kháng nghị phải thực hiện đúng mẫu Ngành kiểm sát quy định; nội dung kháng nghị phải phân tích, làm rò căn cứ kháng nghị như bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; áp dụng không đúng điều khoản BLHS; áp dụng không đúng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; kết luận của bản án hoặc quyết định sơ thẩm không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án; xử quá nặng hoặc nhẹ, không phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, không phù hợp với chính sách hình sự.

- Tăng cường phối hợp giữa các bộ phận trong đơn vị, VKSND hai cấp trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự: BLTTHS năm 2015 quy định phạm vi THQCT bắt đầu từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, do đó đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ, toàn diện giữa các bộ phận nghiệp vụ như: THQCT trong giải quyết tin báo, tố giác tội phạm với THQCT trong giai đoạn điều tra, xét xử sơ

Xem tất cả 99 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí