giá trị văn hoá nói chung, văn học các dân tộc thiểu số nói riêng, đáng để cho chúng ta thêm trân trọng và tự hào.
2.1.Từ vấn đề nghiên cứu thơ ca Hmông truyền thống...
Nhìn chung, vấn đề nghiên cứu về văn học các dân tộc thiểu số cũng như thơ ca Hmông mới chỉ thực sự được bắt đầu từ sau cách mạng tháng Tám. Theo nhận định của các tác giả Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam: "Nếu không kể các truyện lẻ tẻ được in trên các tạp chí, cuốn Truyện cổ tích miền núi (1957) do Nhà xuất bản Văn hoá xuất bản là cuốn sách đầu tiên sưu tập vốn văn học của các dân tộc miền núi phía bắc của thầy trò trường Sư phạm Miền núi Trung ương. Cuốn Văn học các dân tộc thiểu số trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, xuất bản năm 1962, là cuốn sách trong đó các tác giả Hợp tuyển đã chính thức khẳng định thơ văn nói riêng và văn hoá nói chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam, kể cả văn học dân gian và bác học, không chỉ là của riêng người Việt, mà là của chung các dân tộc đã sinh sống cùng xây dựng tổ quốc Việt Nam" [144;tr.11]
Riêng về văn học dân tộc Hmông, cuốn sách ra đời sớm nhất có lẽ là cuốn Truyện cổ dân tộc Mèo do một số người sưu tầm, trong đó có sự tham gia của ông Doãn Thanh. "Công trình này đã có tác dụng rất tốt đối với đồng bào Mèo và cũng đã làm cho các dân tộc anh em hiểu người Mèo thêm một phần nào"[121, tr.7].
Việc sưu tầm, nghiên cứu chuyên biệt về văn học dân tộc Hmông cho tới nay cũng đã đạt được một số kết quả nhất định. Có thể coi Doãn Thanh là một trong những người đầu tiên có công trong việc sưu tầm và biên dịch dân ca Hmông. Năm 1967, Nhà xuất bản Văn học in tập Dân ca Mèo (Lào Cai) của Doãn Thanh. Ông Cư Hoà Vần, lúc bấy giờ đang giữ chức Phó chủ tịch Uỷ ban Hành chính tỉnh Lao Cai, trong Lời giới thiệu cuốn sách nói trên đã nhận định: "Nền văn học dân gian phong phú của dân tộc Mèo từ trước đến nay chưa được ghi chép lại có hệ thống, không những bởi người Mèo không có chữ viết riêng của dân tộc mình mà còn do các nhà sưu tầm nghiên cứu chưa quan tâm đến. Cho nên dân ca, tục ngữ, truyện cổ...chỉ được truyền miệng cho nhau, từ người này qua người khác, từ đời này qua đời khác, do đó đã bị mai một dần"[121, tr.6]. Với 387 trang in, cuốn Dân ca Mèo (Lào Cai) của Doãn Thanh đã tập hợp được hầu hết các bài dân ca tiêu biểu nhất và phổ biến nhất của người Mèo, sắp xếp một cách hệ thống theo 4 chủ đề chính bao
gồm: Tiếng hát mồ côi (gầu tú giua), tiếng hát làm dâu (gầu ua nhéng), tiếng hát tình yêu (gầu plềnh), tiếng hát cúng ma (gầu tuờ). Cuốn sách của Doãn Thanh "không chỉ có tác dụng rất tốt đối với người Mèo, mà còn có tác dụng tốt đối với các dân tộc anh em trong nước Việt Nam chúng ta. Thông qua dân ca Mèo, các dân tộc anh em có thể hiểu thêm nền văn học dân gian Mèo nói riêng và truyền thống đấu tranh, phong tục tập quán và tâm tư tình cảm của người Mèo nói chung" [121; tr.7]. Năm 1984, cuốn sách nói trên được tái bản với tên gọi Dân ca Hmông cho đúng với tên gọi mới của người Mèo được Nhà nước qui định. Cuốn sách do Hoàng Thao tuyển, chỉnh lý. Ngoài phần chính của Doãn Thanh dịch, tác giả biên soạn có đưa thêm hai bài gồm Tiếng hát mồ côi do Lê Trung Vũ sưu tầm ở Mèo Vạc (Hà Tuyên) và Tiếng hát làm dâu (Tây Bắc) do Mạc Phi và Bùi Lạc sưu tầm, trích dịch. Đặc biệt, nhà thơ Chế Lan Viên viết lời giới thiệu với một sự trân trọng và ưu ái sâu sắc đối với những bài dân ca- tâm hồn và tiếng hát Hmông. Đánh giá về dân ca Hmông, nhà thơ Chế Lan Viên đã khẳng định: "Những bài thơ này- có hàng trăm bài như vậy- có thể nằm không hổ thẹn trong những tuyển tập thơ hay của thế giới" [122; tr.16]. Từ năm 1995 đến 2003, nhà thơ, nhà sưu tầm văn học dân gian Hùng Đình Quí đã sưu tập và dịch 3 tập "Dân ca Hmông Hà Giang". Nhìn chung, so với các cuốn Dân ca Mèo (Lào Cai) hay Dân ca Hmông thì công trình của Hùng Đình Quí có phần khiêm tốn hơn. Ông không có ý định sắp xếp các bài dân ca sưu tập được theo chủ đề mà chỉ công bố lần lượt theo thời gian tác giả sưu tầm được. Ngoài ra, là người dân tộc Hmông nên ông cố gắng dịch các bài dân ca sao cho gần nhất với nguyên bản chứ không có sự trau truốt nhất định về mặt ngôn ngữ thơ. Đó là hạn chế nhưng cũng có thể coi là yếu tố tích cực để việc tiếp cận và nghiên cứu dân ca Hmông được thuận lợi hơn. Năm 2004, Hội Văn học Nghệ thuật Lào Cai, Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc cho in cuốn "Tang ca- Kruôzcê của người Mông Lềnh ở Sa pa" do tác giả Giàng Seo Gà sưu tầm và biên soạn. Đây không chỉ là một công trình sưu tầm một cách công phu và cẩn trọng mà còn là một công trình nghiên cứu về tang ca của người Hmông rất đáng ghi nhận, bởi ngoài việc ghi lại đầy đủ 31 bài tang ca (Kruôz cê), tác giả còn đi sâu khảo sát và so sánh nội dung bài tang ca được phổ biến trong các ngành Hmông khác nhau ở Sa Pa như Hmông Lềnh, Hmông Trắng, Hmông Đen, đồng thời bước đầu có những nhận xét, lý giải về một
vài khác biệt về mặt văn bản trong các bài Tang ca được sử dụng ở từng ngành Hmông. Ngoài ra, tác giả còn xem xét, nghiên cứu về các mặt nội dung và nghệ thuật của bài Tang ca. Có thể coi Giàng Seo Gà là người Hmông đầu tiên và là một trong số ít những người nghiên cứu về bài Tang ca- một trong những bài ca quan trọng nhất của người Hmông- cho đến thời điểm này.
Có thể bạn quan tâm!
- Thơ ca dân tộc Hmông - Từ truyền thống đến hiện đại - 1
- Lịch Sử Tộc Người - "những Cuộc Thiên Di Đầy Nước Mắt Và Máu"
- Đời Sống Văn Hóa- "tâm Hồn Và Tiếng Hát Hmông"
- Phong Tục, Tập Quán- Cơ Sở Của Tính Cố Kết Cộng Đồng
Xem toàn bộ 186 trang tài liệu này.
"Thơ văn không gì thấm sâu được vào tâm hồn con người bằng tiếng mẹ đẻ" (Đặng Nghiêm Vạn). Do đó, thao tác cần thiết của người nghiên cứu là phải được đối chiếu bản dịch- dù là thành công nhất, so với nguyên bản; hoặc giả phải được xem xét bằng văn bản ngôn ngữ của chính dân tộc ấy, chứ không thể chỉ căn cứ qua bản dịch. Về phương diện này, đối với thơ ca dân gian Hmông, có lẽ cũng "cần tới một sự châm chước nhất định" [121; tr.13]. Theo khảo sát bước đầu của chúng tôi, Cho đến nay, hướng nghiên cứu, tiếp cận dân tộc Hmông dưới góc độ văn hoá học, dân tộc học, ngôn ngữ học...đã có được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này là những công trình, bài viết của các tác giả, các nhà nghiên cứu như Trần Quốc Vượng, Đặng Nghiêm Vạn, Lê Trung Vũ, Cư Hoà Vần, Trần Hữu Sơn, Đỗ Đức Lợi, Trần Trí Dòi, Vũ Anh Tuấn, Nguyễn Thị Bích Hà, Nguyễn Thị Ngân Hoa v.v. Đáng chú ý là hướng nghiên cứu liên ngành, xem xét, tìm hiểu văn học dân gian dưới góc độ văn hoá, khi mà một số công trình, bài viết của các tác giả nói trên đã bước đầu đề cập đến văn học dân gian Hmông nói chung, thơ ca dân gian Hmông nói riêng với tư cách là một thành tố của văn hoá. Từ việc ý thức vấn đề: nghiên cứu thơ ca Hmông từ truyền thống đến hiện đại không thể không xem xét khía cạnh biểu tượng và giải mã các biểu tượng văn hoá, bởi lẽ, "biểu tượng như là một "đơn vị cơ bản" của văn hóa"[35], tác giả luận án đã hết sức chú ý đến những kết quả nghiên cứu theo hướng này. Có thể kể đến tác giả Nguyễn Thị Bích Hà với bài viết "Mã và mã văn hóa" [32]. Bên cạnh việc đưa ra khái niệm, tính chất của biểu tượng, tác giả còn khẳng định vai trò của việc nghiên cứu các tác phẩm văn học dân gian từ việc giải mã các biểu tượng. Những lý thuyết về biểu tượng và việc giải mã biểu tượng trong bài viết này, cùng với chuyên đề: "Nghiên cứu văn hóa dân gian từ mã văn hóa dân gian" của tác giả được giảng dạy tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội, là những định hướng vô cùng quan trọng cho tác giả luận án trong việc nghiên cứu tính truyền thống của văn học dân tộc Hmông. Tác giả Phạm
Thu Yến trong bài viết "Vấn đề nghiên cứu biểu tượng trong thơ ca dân gian", ngoài việc đưa ra một số nhận xét về việc nghiên cứu biểu tượng ca dao của một số tác giả trong và ngoài nước, đã đi vào nghiên cứu biểu tượng trong thơ ca trữ tình dân gian ở cả ba lĩnh vực: Xác định ranh giới giữa biểu tượng và ẩn dụ, biểu tượng thơ ca dân gian với đặc trưng thể loại, sự hình hành và phát triển của biểu tượng trong thơ ca dân gian. Trong công trình "Một số biểu tượng trong dân ca Hmông nhìn từ góc độ văn hoá" [23], các tác giả đã tập trung giải mã và khảo sát tần số xuất hiện của một số biểu tượng tiêu biểu trong dân ca Hmông như: Cây lanh, cây khèn, cây nêu. Từ đó chỉ ra và khẳng định ý nghĩa văn hoá cũng như giá trị thẩm mĩ của các biểu tượng lanh, nêu, khèn với tư cách là những biểu tượng của văn hoá Hmông. Các tác giả trong công trình nghiên cứu này đã khẳng định: "Hiện nay, nghiên cứu những giá trị này dưới góc độ văn hoá (cụ thể là văn hoá biểu tượng) là một hướng đi hiện đại, hứa hẹn nhiều khám phá mới mẻ" [23; tr.1]
Nhìn chung, cho đến thời điểm hiện tại có thể khẳng định rằng dân ca Hmông đã được xem xét, nghiên cứu một cách khá toàn diện. Trong đó, phải kể đến một số các công trình, bài viết nghiên cứu tiêu biểu như: "Tiếng hát làm dâu, tiếng hát yêu thương, tiếng hát căm hờn, ngàn đời của người phụ nữ Mèo" của Tô Hoài (Tạp chí Văn học, số 2 năm 1965), "Tâm hồn và tiếng hát Hmông" của Chế Lan Viên (Lời giới thiệu cuốn Dân ca Hmông, Nxb Văn học, 1984). Một số đề tài luận văn thạc sĩ về thơ ca dân gian Hmông đã được bảo vệ thành công tại trường đại học Sư phạm, Đại học Quốc gia Hà Nội như: "Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện thơ Hmông về đề tài tình yêu "của Nguyễn Thị Thu Yến, "Thơ ca dân gian Hmông" của Hùng Thị Hà (2003), "Dân ca giao duyên và lễ hội Gầu tào của dân tộc Mông" của Nguyễn Văn Tiệp (2003), Khảo sát nghi lễ cúng ma dân tộc Hmông" của Hoàng Thị Thuỷ (2004), "Giải mã biểu tượng lanh trong dân ca Hmông" của Đặng Thị Oanh (2006)...
Những công trình nghiên cứu nói trên là những gợi ý và định hướng quan trọng cho tác giả luận án trong việc tiếp cận, nghiên cứu văn học dân tộc Hmông, nhất là thơ ca Hmông từ truyền thống đến hiện đại.
2.2. Đến vấn đề nghiên cứu thơ ca Hmông thời kì hiện đại
Nếu như việc sưu tầm và nghiên cứu thơ ca dân gian Hmông đã có được một số thành tựu đáng kể thì việc nghiên cứu về thơ ca hiện đại dân tộc Hmông vẫn còn
hết sức khiêm tốn, nhỏ lẻ và tản mạn. Mặc dù cho đến nay đã có một số công trình, bài viết nhưng cũng phần lớn chỉ dừng lại ở việc tập hợp, tuyển chọn và giới thiệu tác phẩm. Về phương diện này, có thể coi Minh Khương (1920-2001) là một trong những người có công đầu trong việc đưa thơ ca Hmông thời kỳ hiện đại đến với bạn đọc cả nước. Năm 1977, cuốn Mặt trời hoa mây (Luz hnuz păngx huôz) được Ty Văn hoá Hoàng Liên Sơn xuất bản, giới thiệu thơ của 18 tác giả với 26 bài thơ, trong đó có 17 bài thơ của 11 tác giả dân tộc Hmông (do Minh Khương dịch ra tiếng Phổ thông). Đây là những "sáng tác phản ánh tình cảm chân thành biết ơn Đảng, biết ơn lãnh tụ; ca ngợi tinh thần dũng cảm, khắc phục khó khăn gian khổ trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước bảo vệ tổ quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Ca ngợi thành tích chiến thắng, thành tích trong sản xuất và trong nếp sống văn hoá xã hội chủ nghĩa tốt đẹp mà nhân dân ta đã giành được" [91; tr.7]. Từ những năm 90 của thế kỉ XX trở lại đây, việc nghiên cứu về văn học các dân tộc thiểu số nói chung ngày càng được quan tâm và tiến hành trên một bình diện rộng, với một qui mô lớn. Đã có rất nhiều những nhận định, tổng kết, đánh giá về thơ ca các dân tộc thiểu số của các nhà khoa học, các nhà văn hoá, các nhà nghiên cứu, phê bình và cả các nhà văn, nhà thơ quan tâm đến việc bảo tồn và phát triển của thơ ca dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập Quốc tế. Tuy nhiên, có thể là do thơ ca Hmông thời kì hiện đại còn hết sức khiêm tốn, chưa có những tác giả thật sự có được tên tuổi nổi bật như thơ ca của một số dân tộc khác (ví dụ: thơ ca của các dân tộc Tày, Thái, Mường, Chăm...) nên hầu như không có những bài nghiên cứu, phê bình viết riêng về các tác giả Hmông cũng như thơ ca Hmông. Theo khảo sát của chúng tôi, hiện nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu về văn học dân tộc Hmông nói chung, thơ ca Hmông nói riêng với tư cách là một đối tượng nghiên cứu chuyên biệt (ngoài luận văn thạc sĩ với đề tài: "Một số đặc điểm của thơ ca Hmông thời kì hiện đại (từ cách mạng tháng Tám 1945 đến nay)" của chính tác giả luận án, đã được bảo vệ thành công năm 2008).
Theo thiển ý của chúng tôi, nghiên cứu về thơ ca của một dân tộc, hơn nữa, lại là một dân tộc thiểu số là một công việc vô cùng khó khăn, phức tạp. Khó khăn lớn nhất của người nghiên cứu là phải vượt qua được rào cản về ngôn ngữ, phong tục, tập quán... (Đó chính là chìa khoá để mở cánh cửa vào đời sống văn hoá, tinh thần)
của dân tộc đó. Từ đó mới có thể hiểu và lý giải một cách chính xác và sâu sắc về đặc trưng và giá trị thơ ca của từng dân tộc. Việc nghiên cứu thơ ca dân tộc Hmông từ trước đến nay còn ít nhiều bộc lộ những hạn chế, bất cập, nên việc kế thừa thành quả khoa học của những người đi trước không phải bao giờ cũng dẫn đến kết quả mong đợi. Chẳng hạn, những công trình nghiên cứu về dân ca Hmông trước đây hầu như chỉ dựa trên đối tượng nghiên cứu là các bản dịch ra tiếng Phổ thông mà không kèm theo bản tiếng Hmông (như cuốn Dân ca Mông của Doãn Thanh); ngay cả những văn bản thơ của các tác giả Hmông thời kỳ hiện đại cũng một phần là các bản dịch của Minh Khương. Chúng tôi không nghi ngờ về nội dung của các bản dịch. Tuy nhiên, bản dịch dù có thành công đến đâu cũng không thể trung thành tuyệt đối với nguyên tác cả về nội dung và cấu trúc nghệ thuật. Và như vậy, cũng không thể là cứ liệu hoàn toàn tin cậy cho nghiên cứu khoa học. Mặt khác, những cuộc thiên di của người Hmông trong lịch sử với thời gian quá dài có thể xuất hiện và chỉ còn tồn tại những dị bản văn học dân gian, cản trở đến việc xác định những nguồn mạch ban đầu. Ngoài ra, việc người Hmông có tập quán sống di cư và ở rải rác, đan xen với các dân tộc khác trên nhiều địa bàn khác nhau, hiện tượng giao thoa văn hoá là không tránh khỏi, cũng đồng nghĩa với việc vơi dần bản sắc dân tộc. Vấn đề đặt ra: Đâu là bản sắc riêng của văn hoá Hmông nói chung và thơ ca Hmông nói riêng? Giải quyết được vấn đề trên là yêu cầu và cũng chính là mục đích lớn nhất của luận án. Với một vấn đề quá đỗi khó khăn và phức tạp như vậy, chúng tôi không có tham vọng giải quyết một cách triệt để (và cũng không thể giải quyết một cách triệt để), mà chỉ đưa ra những nhận xét, đánh giá ban đầu, ở mức độ chỉ ra những đặc điểm nổi bật, xác định những đặc trưng thơ ca Hmông và nhất là quá trình vận động, phát triển của thơ ca Hmông từ truyền thống đến hiện đại.
Qua việc khảo sát lịch sử vấn đề nghiên cứu thơ ca dân tộc Hmông từ truyền thống đến hiện đại, chúng tôi bước đầu đưa ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, về tình hình nghiên cứu thơ ca dân tộc Hmông: Cho đến nay, chúng tôi thấy rằng, chủ yếu các nhà nghiên cứu, sưu tầm mới tập trung sự chú ý vào mảng thơ ca dân gian Hmông, đặc biệt là mảng dân ca Hmông, còn mảng thơ ca Hmông thời kì hiện đại chưa thực sự được quan tâm đúng mức.
Thứ hai, hướng tiếp cận chủ yếu và thành công nhất của các tác giả, cho đến nay, vẫn là hướng tiếp cận dưới góc độ văn hoá (cụ thể là giải mã các biểu tượng văn hoá trong đời sống văn hoá, nghệ thuật của dân tộc Hmông).
Thứ ba, nghiên cứu về thơ ca dân tộc Hmông, theo khảo sát của chúng tôi, mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu đặc điểm thơ ca dân gian hoặc thơ ca hiện đại một cách riêng biệt, chưa có một công trình nào tập trung nghiên cứu về thơ ca dân tộc Hmông một cách qui mô, hệ thống từ dân gian đến hiện đại, nhằm chỉ ra các đặc điểm nổi bật mang tính bản sắc của dân tộc Hmông; đồng thời chỉ ra được quá trình hình thành và phát triển, tiếp biến của thơ ca Hmông trong suốt chiều dài lịch sử. Đó chính là tính truyền thống và hiện đại như một nét đặc trưng và đặc sắc của dân tộc Hmông được thể hiện một cách sinh động qua thơ ca.
Việc nghiên cứu về thơ ca dân tộc Hmông một cách toàn diện, quy mô, hệ thống và đặt trong sự vận động từ truyền thống đến hiện đại chưa được giới nghiên cứu quan tâm đã tạo ra một khoảng trống trong việc nhìn nhận, xem xét, đánh giá về những thành tựu và hạn chế của thơ ca dân tộc Hmông trong nền thơ ca các dân tộc thiểu số, cũng như nền thơ Việt Nam. Chúng tôi cho rằng, việc triển khai thực hiện luận án: Thơ ca dân tộc Hmông- từ truyền thống đến hiện đại là một nỗ lực để lấp đầy (hoặc thu hẹp lại) khoảng trống đó. Thiết nghĩ, đó là một công việc cần thiết, hữu ích cho nghiên cứu văn học, đặc biệt là văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Triển khai thực hiện đề tài luận án: Thơ ca dân tộc Hmông- Từ truyền thống đến hiện đại, chúng tôi lựa chọn cách tiếp cận nghiên cứu thơ ca Hmông trong quá trình vận động và phát triển từ thơ ca dân gian đến thơ ca hiện đại, trên hai phương diện chủ yếu là nội dung phản ánh và cấu trúc nghệ thuật.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu thơ ca dân tộc Hmông trong phạm vi các văn bản sau:
* Thơ ca dân gian:
- Dân ca Mèo (Lào Cai), Doãn Thanh, Nxb Văn học, Hà Nội, 1967
- Dân ca Hmông, Doãn Thanh, Hoàng Thao, Nxb Văn học, Hà Nội, 1984.
-Dân ca Mông Hà Giang, tập 1,2,3, Hùng Đình Quí, Sở Văn hoá Thông tin Hà Giang (2000,2001,2003)
* Thơ ca hiện đại:
- Mặt trời hoa mây, Nhiều tác giả, Ty Văn hóa Hoàng Liên Sơn, 1977.
- Người Mông nhớ Bác Hồ, Hùng Đình Quí, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1993.
- Chỉ vì quá yêu, Hùng Đình Quí, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1998.
- Bên suối Nậm Mơ, Mã A Lềnh, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1995.
- Mã A Lềnh thơ, Mã A Lềnh, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2002.
- Các tác phẩm thơ của các tác giả người Hmông được công bố trên báo chí hoặc trong các tuyển tập thơ từ trước tới nay.
Vì không có điều kiện để tiếp cận các tác phẩm thơ ca của người Hmông được in ấn và đăng tải trên các báo chí, website của nước ngoài nên chúng tôi không sử dụng những tài liệu này.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện luận án: Thơ ca dân tộc Hmông- từ truyền thống đến hiện đại,
chúng tôi đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Khảo sát thơ ca Hmông từ truyền thống đến hiện đại nhằm chỉ ra những đặc trưng của thơ ca Hmông cả về nội dung và hình thức nghệ thuật.
- Bước đầu so sánh, đối chiếu thơ ca Hmông với thơ ca của một số dân tộc thiểu số khác và thơ ca của người Kinh (Việt) để thấy được những nét riêng biệt, mang tính bản sắc của thơ ca Hmông từ truyền thống đến hiện đại.
- Nghiên cứu quá trình vận động của thơ ca Hmông từ truyền thống đến hiện đại để thấy sự nhất quán trong đặc trưng thơ ca của dân tộc này. Đồng thời, chỉ ra được sự kế thừa, tiếp biến trong quá trình vận động của thơ ca Hmông từ truyền thống đến hiện đại.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án Thơ ca dân tộc Hmông- Từ truyền thống đến hiện đại thuộc chuyên ngành Văn học Việt Nam, với đối tượng nghiên cứu trên diện rộng, bao gồm cả lịch sử, tiến trình phát triển của thơ ca Hmông từ thơ ca dân gian đến thơ ca hiện đại.