Thơ Ca Hmông Và Những Mạch Nguồn Cảm Hứng


Trên những triền núi cao, khắp các xóm bản của người Hmông, luôn tràn đầy những thanh âm rất đặc trưng như là những sứ giả của tâm hồn người Hmông: Điệu khèn vui xóm núi/ Tiếng kèn môi giục lòng (Lên cao nguyên - Giàng Xuân Hồ).

Khéo léo, tài hoa là nét bản tính đặc trưng của con người dân tộc Hmông. Người Hmông rất yêu ca hát, yêu âm nhạc. Có lẽ đặc trưng hoàn cảnh sống đã chi phối và góp phần tạo nên những diện mạo tâm hồn ấy của người Hmông. Đó là một trong những nét bản sắc mà thiên nhiên và cuộc sống ban tặng cho con người: "Do sống giữa một vùng rừng núi nhấp nhô, đa dạng với muôn ngàn hoa lá khác nhau, nên con mắt của người miền núi có nhiều màu sắc, dáng hình kì vĩ, ít chấp nhận những cái gì bằng phẳng đơn điệu, lặp đi lặp lại đến sáo mòn... Do sống giữa một vùng thiên nhiên như thế, phải đấu tranh chống thú dữ để sinh tồn và bảo vệ mùa màng nên có tác phong hùng dũng đến dữ dội? Hoặc sống trong khoảng không gian bao la mà tâm hồn phóng khoáng nhiều khi đến phóng túng" [113]. Đó là tính cách và diện mạo tâm hồn con người dân tộc Hmông.

2.3. Thơ ca Hmông và những mạch nguồn cảm hứng

Từ điển Tiếng Việt [94] định nghĩa: "Cảm hứng là trạng thái tâm lí đặc biệt khi sức chú ý được tập trung cao độ kết hợp với cảm xúc mãnh liệt, tạo điều kiện cho óc tưởng tượng và năng lực sáng tạo hiệu quả nhất". Xem xét cảm hứng với tư cách là một khái niệm của lí luận văn học, trước nay cũng đã có những ý kiến phân loại khác nhau. Ý kiến của N. Pôxpôlôv trong cuốn Dẫn luận nghiên cứu văn học chia cảm hứng làm 6 loại: Cảm hứng anh hùng ngợi ca, cảm hứng kịch tính, cảm hứng lãng mạn, cảm hứng cảm thương, cảm hứng bi kịch và cảm hứng trào phúng [79]. Nhà nghiên cứu Phương Lựu chia cảm hứng làm 3 loại: cảm hứng lịch sử dân tộc, cảm hứng thế sự và cảm hứng đời tư [75]. Tuy nhiên, trong một tác phẩm văn học nhất định, có hiện tượng phổ biến là các loại cảm hứng nói trên không tồn tại độc lập, mà kết hợp, đan xen lẫn nhau. Do vậy, khi xem xét đối tượng cụ thể là thơ ca dân tộc Hmông từ truyền thống đến hiện đại, chúng tôi chủ trương phân loại và định danh các phức hợp cảm hứng gắn liền với các giai đoạn lịch sử nhất định và với sự vận động, phát triển của thơ ca Hmông: Từ cảm hứng cảm thương-bi kịch, đến cảm hứng trữ


tình- ngợi ca và bao trùm lên tất cả là cảm hứng suy tư- chiêm nghiệm như là một nét đặc trưng trong việc biểu hiện lối tư duy, cách diễn đạt mang đậm bản sắc Hmông.

2.3.1. Cảm hứng cảm thương- bi kịch ...

Cảm hứng cảm thương- bi kịch là những rung động mãnh liệt của cảm xúc, bộc lộ sự thương cảm sâu sắc của các tác giả trước những vấn đề hiện thực nghiệt ngã, mang tính bi kịch của xã hội. Đây là cảm hứng chủ đạo trong thơ ca dân gian Hmông cũng như thơ ca của các dân tộc thiểu số khác trước Cách mạng.

Trong xã hội cũ, và xa hơn nữa, từ các cuộc thiên di trong lịch sử, hành trình cuộc sống của người Hmông là hành trình của những nỗi buồn triền miên từ thực tại và những ám ảnh nặng nề trong quá khứ. Đời sống du canh du cư đầy bất ổn, những niềm tin bị đánh cắp, những ước mơ bị vùi dập... đã khiến cho người Hmông sống khép lòng mình, ít cởi mở và giao lưu. Vì vậy, thơ Hmông truyền thống chủ yếu được viết theo lối giãi bày tâm trạng và âm điệu chủ đạo của nó là tiếng than. Nói cách khác, đó là sự biểu hiện của cảm hứng cảm thương- bi kịch. Toàn bộ truyện thơ của người Hmông là điệp khúc của những éo le và khổ đau bất tận. Trong dân ca Hmông, với 5 mảng đề tài chính thì chỉ có Tiếng hát tình yêu ((gầu plềnh) còn có chút le lói của niềm vui, của niềm hy vọng vào một thứ hạnh phúc vốn còn quá mong manh, một cách xa xăm mơ hồ, bên cạnh những giai điệu trầm buồn, ám ảnh, day dứt, ngân vang của Tiếng hát làm dâu (gầu ua nhéng), Tiếng hát mồ côi (gầu tú giua) và cả Tiếng hát cúng ma (gầu tuờ).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 186 trang tài liệu này.

Cảm hứng cảm thương- bi kịch trong thơ ca Hmông là sự soi chiếu những bi kịch cay đắng nghiệt ngã của dân tộc Hmông từ trong lịch sử. Đó là bi kịch của số phận dân tộc, số phận cộng đồng và số phận cá nhân với tất cả những hệ luỵ của nó.

Lịch sử của người Hmông là lịch sử của những cuộc thiên di và đấu tranh quyết liệt chống lại sự đô hộ của người Hán. Trên hành trình khổ đau bất tận ấy, bi kịch của người Hmông trở thành những ám ảnh tâm lí nặng nề hằn sâu trong tâm hồn dân tộc: đó là ám ảnh về sự mất tự do, mặc cảm bị thua thiệt đã in đậm và hình thành tâm lí tự ti dân tộc: Người Hmông ta ở Quí Chân đến/ Vì người Hmông ta

Thơ ca dân tộc Hmông - Từ truyền thống đến hiện đại - 11


không có chữ/ Thua kiện người Hán ta mới đi; Người Hán có chữ/ Người Hán ăn không hết tài hết phép/ Người Hmông không có chữ/ Quanh năm suốt tháng cơ hàn [122]. Định mệnh đã đưa đấy một dân tộc từ trong truyền thuyết vốn đã có một quốc gia riêng, một tên gọi riêng đầy kiêu hãnh, đến một cuộc sống du canh du cư thường trực nỗi lo âu, bất ổn.

Bi kịch cộng đồng của người Hmông khởi phát từ những điều kiện nghiệt ngã của công cuộc mưu sinh: điều kiện địa lí và xã hội không ưu ái cho những người đến muộn. Trong thẳm sâu tâm hồn, người Hmông đã coi Việt Nam là quê hương thứ hai của mình: Người Mèo ta cũng có quê/ Quê ta là Mèo Vạc (Dân ca Hmông). Môi trường sống của họ là chót vót trên những đỉnh non cao với khí hậu khắc nghiệt: Từ một đến hai tháng tuyết phủ trắng phau/Giống nương, giống rẫy khoanh tay, xếp chân, co ro ngồi (Dân ca Hmông); họ luôn phải còng lưng bới đá gieo hạt ngô be bờ ruộng bậc thang mỗi năm một vụ (Đất quê hương, Mã Én Hằng)...

Bi kịch lớn nhất của người Hmông trong xã hội cũ là bi kịch thân phận và quyền sống của con người. Đó là bi kịch của những người phụ nữ với những đắng cay cơ cực, nạn nhân của xã hội phụ quyền, không thể quyết định số phận và tương lai của bản thân. Hay bi kịch của những con người mồ côi; bi kịch của những lứa đôi yêu nhau mà không đến được với nhau. Tiếng hát mồ côi, Tiếng hát làm dâu và cả kho tàng Truyện thơ Hmông (Luk tẩuv Hmôngz) là những mảng đề tài thể hiện sâu sắc và sinh động nhất cảm hứng nói trên. "Trong vốn văn học của các dân tộc ít người vùng cao, Tiếng hát làm dâu của dân tộc Mèo là những tiếng hát đầy uất hận lên án tập tục ép duyên, cảnh làm dâu nhà người "như con ngựa trong tàu". Người trong truyện không chịu ép một bề mà đã tìm cách thoát ra ngoài cảnh éo le, đôi bạn tình không lấy được nhau đã cùng nhau ăn lá ngón chết, với dự định lên "trời" kiện ông tơ hồng đã làm cho họ lỡ làng ở trần gian và đòi được sống bên nhau ở thế giới bên kia[132; tr15]. Trước thực tế xã hội nghiệt ngã đó, không thể có chuyện tự do yêu đương và chọn lựa hạnh phúc cho những người phụ nữ Hmông. Biết bao những lứa đôi yêu nhau tha thiết để rồi phải chia lìa. Khổ

đau, uất ức vì bị đối xử tệ bạc, có bao cô gái Hmông chỉ biết than thân trách phận:


Trời ơi! Thân chị như thân ngựa/Không biết tự mình hạ bao hạ túi [122; tr.227]; có người lại trách kẻ phụ tình, trách người con trai không chủ động bày tỏ tình yêu: Gió về, tại sao giậu vườn không cản gió/Để gió đi xô giậu vườn đổ ngổn ngang/Anh có lòng muốn cùng tôi kết đôi/Sao anh không sớm cùng tôi ngỏ lời?[122; tr.160]. Có khi, cô gái Hmông lại chỉ biết trách móc mẹ cha nỡ lòng ép duyên con phải đi vào con đường gai góc, đau khổ, để rồi, phải chịu đựng một cách nhẫn nhịn, uất ức: Em chỉ còn biết lên đỉnh núi cao em khóc/Cho nước mắt thấm ba tầng đất đen [122; tr.139]...

Trong khổ đau, uất ức vì bị đối xử tệ bạc, đã có lúc người phụ nữ Hmông vùng vẫy, đứng lên đấu tranh tự giải thoát mình. Các tác giả dân gian Hmông đã để cho người phụ nữ với thân phận của người con dâu, phản kháng quyết liệt với mẹ chồng, như một sự thách thức: Bà không ưa tôi, bà hãy kêu họ nhà tôi tới nói cho bỏ thật chân, buông thật tay/Tôi sẽ theo chân họ nhà tôi, tôi đi/... Và lúc ấy tôi sẽ vỗ tay nhảy/Vui mừng như người đi làm ăn [122;tr.222]. Người con dâu đã thẳng thừng, chống đối mãnh liệt với mẹ chồng (đại diện cho lễ giáo phong kiến khắc nghiệt) để đòi tự do, để thoát khỏi cảnh làm dâu nghiệt ngã. Câu thơ- lời phản kháng đó mang đậm chất Hmông, bản lĩnh Hmông, tính cách Hmông mạnh mẽ, quyết liệt (rất hiếm gặp thái độ và bản lĩnh như thế của những người phụ nữ cùng cảnh ngộ trong thơ ca của các thơ ca dân tộc thiểu số khác).

Tuy nhiên, những hành động phản kháng như vậy trong thơ ca Hmông không nhiều. Trái lại, họ thường phản kháng tiêu cực một cách quyết liệt, mà hành động phổ biến là ăn lá ngón. Cái chết bi thảm của họ như một sự cảnh tỉnh người thân và lên án xã hội bất công. Hình tượng cây lá ngón hoa vàng trở nên quen thuộc trong thơ ca Hmông như một phương thuốc hữu hiệu cho sự giải thoát khỏi cuộc đời và số phận: Em ơi! Chị ngắt lá thuốc độc đắng thật đắng/Đưa lên mồm, nuốt ực cho nát quách lá gan/Chị ngắt lá thuốc độc cay thật cay/Đưa lên miệng nuốt ực..., hay: Nàng ơi! Ta trở về nắm cây thuốc độc rễ không chắc/Ta trở về, ta được nàng thì thôi/Không được nàng, ta ăn lá thuốc độc chết đi cho thịt rữa tan...[122]


Trong một chừng mực nào đó, thơ ca đối với dân tộc Hmông trước cách mạng tháng Tám chính là phương tiện để bộc lộ, giãi bày tâm trạng chứ không phải là phương tiện để nhìn nhận cuộc sống với tất cả sự phong phú, đa dạng của nó. Để rồi, bước sang thời kì hiện đại, thơ ca Hmông có một sự thay đổi quan trọng. Từ điểm nhìn bản thân mang tính hướng nội đã được thay thế bằng điểm nhìn xã hội mang tính hướng ngoại, mà dấu ấn rò rệt nhất là từ phương diện cảm hứng nghệ thuật.

2.3.2. Cảm hứng trữ tình- ngợi ca

Cuộc cách mạng tháng Tám vĩ đại đã giải phóng cuộc đời của cả dân tộc Việt Nam. Đồng bào miền núi nói chung và đồng bào dân tộc Hmông nói riêng cũng đã thoát khỏi cảnh đời tăm tối để bắt tay vào xây dựng một cuộc sống mới, một tương lai mới cho dân tộc mình. Lớp thế hệ nhà thơ Hmông đầu tiên được ra đời và lớn lên trong cuộc sống hoà bình, hiểu sâu sắc giá trị của cuộc sống, của hai chữ tự do. Chính vì vậy mà cảm hứng nổi trội nhất trong thơ ca dân tộc Hmông thời kỳ hiện đại là cảm hứng ngợi ca cuộc sống mới do Cách mạng, Đảng và Bác Hồ đem lại.

Thơ ca Hmông thời kì hiện đại là một bài ca ca ngợi cuộc sống và tình yêu mà biểu hiện sâu sắc và chân thực nhất là lòng biết ơn. Dường như, với các tác giả người Hmông, khi đặt bút làm thơ, mục tiêu đầu tiên là thể hiện được tấm lòng của mình, của dân tộc mình, lòng biết ơn đối với Cách mạng đã khai sinh cho người Hmông có được một cuộc đời mới. Hùng Đình Quí có các bài thơ Người Mông có chữ (1968), Ơn Đảng (1969), Nhớ Bác Hồ (1969), Ánh đuốc trên đỉnh Vần Chải, Việt Bắc ngày nay (1972); Giàng A Của có bài thơ Có Cụ Hồ về; Vừ Thị Dưa có bài Nhớ đến Chính phủ; rồi Giàng Páo Ly, Giàng A Páo, Mùa A Sấu, Sùng Nhìa Tú... đều có những bài thơ nói lên lòng biết ơn sâu nặng của dân tộc Hmông đối với Đảng, với Chính phủ và Bác Hồ.

Dân tộc Hmông là một dân tộc có tính cộng đồng rất cao. Có lẽ do sống khu biệt trên các đỉnh núi hẻo lánh nên tình cảm cộng đồng được cộng hưởng, được nở rộ như những bông hoa dưới ánh mặt trời. Không khí vui tươi, sôi nổi rộn rã ở miền Bắc trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội đã lan toả đến tận các


bản làng heo hút của người Hmông. Cuộc sống dần văn minh, xoá bỏ những hủ tục cũ kỹ, lạc hậu là đối tượng miêu tả, biểu hiện của các nhà thơ Hmông. Những thửa ruộng bậc thang lúa vàng trĩu hạt; những mái trường có con em của người Hmông theo học, như những “bầy ong tung tăng đi hút nhị hoa”. Những chính sách của Đảng tựa như những làn điệu dân ca bay bổng, lay động, thấm sâu vào tâm hồn người Hmông. Khắp nơi rộn rã không khí đổi mới vui tươi, tràn ngập niềm tin vào cuộc sống. Cảm giác lâng lâng của con người được giải phóng, được tự do thật là kì diệu, để người Hmông nhìn thiên nhiên cũng thấy có tâm hồn, có sự đồng điệu, say mê: Mặt trời nâng hoa mây/Bồng bềnh sáng núi đá (Mặt trời hoa mây - Giàng A Páo). Cuộc sống của người Hmông có sự bình yên, êm đềm, đẹp một cách lãng mạn. Chất lãng mạn ngấm sâu vào tim vào óc mỗi người để thăng hoa thành những tâm hồn nghệ sĩ.

Trong thơ ca Hmông, Tiếng hát tình yêu (gầu plềnh) chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Đó là ánh trăng sáng lung linh trên bầu trời thơ ca, đẹp một cách huyền diệu. Chính cảm hứng trữ tình-ngợi ca đã làm cho những câu thơ có sức lay động và quyến rũ diệu kì, "có thể nằm không hổ thẹn trong những tuyển tập thơ hay của thế giới" (Chế Lan Viên)[123]. Tuy nhiên, cả trong cuộc sống và tình yêu, người Hmông đều hồn nhiên và mãnh liệt đến độ cực đoan. Đã sống- sống hết mình; đã yêu- yêu đến nồng nàn đam mê; đã ghét- ghét đến tận cùng xương tuỷ. Thơ ca Hmông là sứ giả trung thành cho việc bộc lộ những cung bậc và trạng thái tình cảm ấy: Gió về gió thổi lá cây lật lả lướt bên khe/ Nếu ta là hạt mưa hạt sương/ Ta xin tan trên bàn tay nàng; Đêm đã qua, sao lượn vòng đổi chỗ/ Ngày đã rạng, lối đi đã tỏ/ Ta lê bước về nhà/ mà hồn như còn ngủ ở thắt lưng em (Dân ca Hmông)

Cuộc sống của người Hmông trên núi cao đơn sơ nhưng không đơn điệu, một phần cũng bởi người Hmông có đời sống tinh thần phong phú. Âm nhạc chính là một chất men say trong tâm hồn người Hmông. Người Hmông yêu âm nhạc bằng một tình yêu gần như là bản năng, đầy chất nghệ sĩ. Cuộc sống của đồng bào dân tộc Hmông không thể thiếu những tiếng khèn, tiếng đàn môi, kèn lá - những nhạc cụ quen thuộc và gần gũi của dân tộc Hmông. Chàng trai Hmông


múa khèn tài hoa như những nghệ sĩ đích thực trong các buổi chợ phiên, những đêm trăng hay trong các lễ hội “Gầu tào”: Điệu khèn vui xóm núi/ Tiếng đàn môi giục lòng (Giàng Xuân Hồ). Những thiếu nữ Hmông thả tâm tình trong tiếng đàn môi dìu dặt, trong tiếng kèn lá ẩn chứa những tâm sự vui buồn: Nhớ buổi tiễn chân ta qua đồi/ Em ngắt lá thổi bài kèn réo rắt (Dân ca Hmông). Âm nhạc Hmông không ưa sự quân bình mà ưa đi đến tận cùng của những cung bậc thanh âm, chót vót cao và thăm thẳm sâu. Có lẽ đó cũng chính là cá tính của một dân tộc chứa bao điều bí ẩn trong tâm hồn.

Cuộc sống của người Hmông không thiếu sự thơ mộng đến lãng mạn, những chủ nhân của núi đá vùng cao có đời sống tinh thần phong phú, trước hết và trên hết, họ có một tình yêu nồng nàn. Từ những đỉnh núi - cao nguyên vừa hùng vĩ nên thơ vừa rất đỗi khắc nghiệt đã sinh ra những nhà thơ Hmông để cất lên những tiếng ca ca ngợi quê hương và tình yêu của mình:Từ đá/Sinh ra những chàng thi sĩ/Hát ca về đất trời, tình yêu của mình (Đá ở Sa Pa - Mã A Lềnh).

Đời sống văn hoá Hmông với sự phong phú, độc đáo và đặc sắc, góp phần tạo nên một diện mạo tâm hồn dân tộc Hmông. Những buổi chợ phiên miền núi cao ngập tràn những thanh âm sắc màu của những tiếng mời chào, nói cười nghiêng ngả, của hoa văn thổ cẩm đủ bảy sắc cầu vồng, của những bát rượu nồng nàn hương bắp bên những chảo “thắng cố” bốc hơi ngào ngạt. Tất cả tạo nên một không khí náo nức tươi vui mê đắm lòng người. Có thể những nhà thơ Hmông thời kỳ hiện đại chưa phải là những người thợ mỏ lành nghề để khai thác và tinh luyện những mỏ quặng còn rất đỗi nguyên sơ với một trữ lượng khổng lồ, tiềm ẩn trong đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc Hmông. Nhưng dẫu sao,với khả năng và trái tim nồng nàn yêu mến của mình, các tác giả người Hmông đã phần nào làm hiển lộ được kho tàng quí giá ấy, để làm cho người đọc biết đến, yêu mến thơ Hmông, cũng như yêu quí những giá trị văn hoá tinh thần sâu đậm của dân tộc Hmông.

Thơ ca dân tộc Hmông thời kỳ hiện đại là sản phẩm tinh thần của các nhà thơ Hmông, là tấm gương phản chiếu đời sống, xã hội dân tộc Hmông. "Các sáng tác bao giờ cũng bám rễ vào cuộc sống một cách hồn nhiên, phản ánh sắc nét, sinh động đời sống tình cảm cũng như phong tục, tập quán của đồng bào HMông" [49;


tr.76]. Đó là tình cảm của con người yêu mến gắn bó với thiên nhiên - một thứ thiên nhiên miền núi cao rất đặc trưng của người Hmông. Đó còn là hình ảnh con người dân tộc Hmông đầy bản lĩnh và cá tính; mạnh mẽ và tài hoa, chân thực và lãng mạn. Đó là sự miêu tả, phản ánh cuộc sống của đồng bào Hmông trong xã hội mới với không khí vui tươi lao động, phấn khởi và tin tưởng vào Đảng và Bác Hồ; cuộc sống của một dân tộc với những phong tục tập quán đầy bản sắc.

Thơ ca hiện đại Hmông được sáng tạo từ cảm xúc chân thành và tình cảm thiết tha yêu cuộc sống, yêu dân tộc của những nhà thơ Hmông, tiêu biểu và đại diện cho tiếng nói tình cảm của dân tộc Hmông. Đúng như nhận xét của nhà thơ Chế Lan Viên: "Thơ ca Mông là công cụ thực dụng trong đời sống, chứ không phải chỉ giúp con người đôi cánh hư ảo để bay lên trên, thoát ra ngoài. Đời sống do đó vào cụ thể, tràn đầy trong thơ". [122]

2.3.3. Cảm hứng suy tư - chiêm nghiệm

Nhìn chung, sau năm 1975 và nhất là sau Đổi Mới (1986), cùng với sự thay đổi lớn lao và nhanh chóng bộ mặt đời sống xã hội của đất nước, thơ ca dân tộc Hmông có sự chuyển đổi cơ bản về cảm hứng nghệ thuật. Nếu như ở các giai đoạn trước, cảm hứng cảm thương- bi kịch và cảm hững trữ tình- ngợi ca chiếm ưu thế chủ đạo, thì giai đoạn này, khi mối quan hệ giao lưu văn hóa giữa các dân tộc ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc, nhận thức của người Hmông ngày càng được nâng cao, những nhà thơ- sứ giả tâm hồn của người Hmông bắt đầu có những suy tư, chiêm nghiệm, có sự quan tâm hơn đến những vấn đề mang tính thế sự, và cả nhu cầu tự bộc lộ và khám phá bản thân.Thơ ca dân tộc Hmông đi vào chiều sâu trí tuệ bằng những suy nghĩ, cảm nhận mang dấu ấn cá nhân rò rệt. Cái Ta của cộng đồng Hmông trước đây đã dần dần được thay thế bằng cái Tôi cá nhân với những ước mơ, hoài bão, khát vọng, và suy tư về thế sự, cuộc đời. Sự quan tâm hàng đầu của người Hmông không còn là vấn đề cơm ăn áo mặc, mà rộng hơn, là tương lai của dân tộc, là vấn đề gìn giữ và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống trong thời kì hội nhập. Đồng thời, các nhà thơ dân tộc thiểu số cũng đang nỗ lực đi tìm cái riêng trong nhận thức, phản ánh con người và xã hội, trên cơ sở cách nghĩ, cách cảm mang tính đặc trưng của mỗi dân tộc. Điều đó dường như cũng là yếu tố cốt lòi, căn bản để thơ dân

Xem tất cả 186 trang.

Ngày đăng: 22/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí