Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
THI HÀNH PHÁP LUẬT DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai tròthi hành pháp luật dân chủ cơ sở
1.1.1. Khái niệm thi hành pháp luật dân chủ cơ sở
1.1.1.1. Khái niệm dân chủ
Dân chủ là một khái niệm đa nghĩa, phức tạp, thuộc phạm trù chính trị ra đời từ thời Hy Lạp cổ đại, khoảng giữa thế kỷ thứ 5 đến thứ 4 trước Công nguyên ở thành Anthena đã hình thành một thể chế chính trịđược gọi là “Democratos”, trong đó, “Demos” là nhân dân, “Cratos” là quyền lực. Theo thể chế này “dân chủ” có nghĩa là “quyền lực thuộc về nhân dân” (hay là “quyền lực của nhân dân”)[24]. Xuất phát từ nguồn gốc ra đời của khái niệm này, có thể nói dân chủ là một khái niệm thuộc lĩnh vực chính trị, có nội hàm là quyền lực chính trị. Bản chất của khái niệm này là quyền lực nhà nước phải thuộc về nhân dân. Dân chủ là hình thức tổ chức quyền lực nhà nước dựa trên nguyên tắc nhân dân là chủ thể duy nhất của mọi quyền lực. Điều kiện tiên quyết để có nền dân chủ ổn định là phải có bộ máy nhà nước hoạt động hiệu quả.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, có thể hiểu: “Dân chủ là hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào các tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế xã hội nhất định”[12].
Có thể bạn quan tâm!
- Thi hành pháp luật về dân chủ cơ sở - Từ thực tiễn Quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội - 1
- Thi hành pháp luật về dân chủ cơ sở - Từ thực tiễn Quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội - 2
- Đặc Điểm Thi Hành Pháp Luật Về Dân Chủ Cơ Sở
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đếnthi Hành Pháp Luật Về Dân Chủ Cơ Sở
- Thi hành pháp luật về dân chủ cơ sở - Từ thực tiễn Quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội - 6
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
Như vậy, dân chủ được coi là tiêu chí đánh giá cách thức, trình độ tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ là vấn đề phức tạp, có nội dung lớn và luôn luôn mới, gắn
với những tiến bộ lịch sử và văn hóa của loài người. Để nghiên cứu, hiểu rò bản chất, tính chất và nội dung của dân chủ phải xem xét nó dưới các góc độ, khía cạnh khác nhau:
Thứ nhất, theo triết học, chính trị, dân chủ là một hiện tượng lịch sử xã hội, một sản phẩm của sự vận động chính trị bị chế ước bởi trình độ và trạng thái hiện thực của kinh tế- xã hội; mà dân chủ còn là thành tựu của sự phát triển văn hoá nhân loại, với tính cách là thước đo về trình độ giải phóng con người, xã hội mà loài người đã đạt được trong mỗi thời đại lịch sử. Trong mối quan hệ này dân chủ là một động lực, một tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội.
Thứ hai, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Dân chủ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin là một hiện tượng lịch sử gắn liền với xã hội có giai cấp và được biến đổi dưới nhiều hình thức khác nhau trong điều kiện tương ứng của các hình thái kinh tế - xã hội. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, “dân chủ” có một chất lượng mới do được phát triển đầy đủ trên cơ sở một nền kinh tế phát triển cao, nhờ đó con người được giải phóng và phát triển toàn diện. Trong đó, “sự phát triển của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người”[24, tr.51].
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin dân chủ trước hết là một hình thức Nhà nước. V.I Lênin viết: “Chế độ dân chủ, đó là một Nhà nước thừa nhận việc thiểu số phục tùng đa số, nghĩa là sự tổ chức đảm bảo cho một giai cấp thi hành bạo lực một cách có hệ thống chống lại giai cấp khác”[14, tr.101]. Vì vậy, dân chủ luôn mang tính giai cấp, nó tồn tại và biến đổi cùng với sự biến đổi của cuộc đấu tranh giai cấp và sự thay đổi của phương thức sản xuất chủ yếu của xã hội. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hiện tượng hợp quy luật, là bước phát triển cao hơn về chất so với các kiểu dân chủ khác và bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là giải phóng con người, để con người có thể thực hiện được những quyền tự nhiên của mình, tự làm chủ vận mệnh và quyết
định những vấn đề xã hội. Theo C.Mác, dân chủ xã hội chủ nghĩa thực chất là chế độ “do nhân dân tự quy định Nhà nước”, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước. Nhân dân tự tổ chức quyền lực nhà nước qua bầu cử, tham gia quản lý và quyết định những vấn đề quan trọng, kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Lênin đã khái quát quyền dân chủ trong lĩnh vực chính trị của dân thành ba nội dung lớn: quyền bầu cử, quyền tham gia quản lý các công việc của Nhà nước và quyền bãi miễn.
Thứ ba, theo quan điểm của Hồ Chí Minh.
Tiếp thu và kế thừa các quan điểm về “dân chủ” của nhân loại, Hồ Chí Minh lý giải khái niệm “dân chủ” một cách đơn giản, hết sức cô đọng và dễ hiểu, dễ thực hiện và kiểm soát. Người nói: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là dân làm chủ”[11, tr.572], “nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”[10, tr. 276].Người còn giải thích thêm:
“Nước ta là nước dân chủ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử ra Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[10, tr.232]. Trong tác phẩm Thường thức chính trị viết năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rò: “Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ... Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ”. Xã hội nào bảo đảm cho điều đó được thực thi thì đó là một xã hội thực sự dân chủ. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Địa vị cao nhất là dân; mọi quyền hành và
lực lượng đều ở nơi dân. Dân là quý nhất, mạnh nhất. “Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”. “Đem tài dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân”.
Như vậy, “dân là chủ” và “dân làm chủ” là cốt lòi trong khái niệm “dân chủ” của Hồ Chí Minh. Phát huy dân chủ là một khía cạnh biểu hiện ý thức tôn trọng Nhân dân. Quan điểm trên thể hiện nội dung cơ bản mà nhân loại tiến bộ thừa nhận: dân chủ nghĩa là quyền lực thuộc về Nhân dân. Theo quan điểm của Người còn cho thấy, dân chủ là một hình thức nhà nước, một thiết chế xã hội và quyền lực thuộc về Nhân dân, trong đó, bản chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là vì con người, phục vụ con người, phục vụ xã hội trên tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin. Cốt lòi của dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, thể hiện ở bốn mặt gắn bó mật thiết với nhau: Bảo đảm dân quyền, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, nắm vững dân tâm. Bốn mặt đó là thước đo trình độ làm chủ của Nhân dân.
Tóm lại, theo phân tích trên cho thấy có nhiều cách tiếp cận khác nhau về phạm trù “Dân chủ” xét theo đối tượng, phương pháp và mục đích khác nhau của nhiều bộ môn khoa học. Từ lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, quan điểm về dân chủ được hiểu một cách khái quát: “Dân chủ” là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; là hình thức thể hiện quyền tự do, bình đẳng của công dân, xác định nhân dân là chủ thể của quyền lực,gắn với quyền dân chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, được pháp luật bảo đảm dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là một trong những luận điểm khái quát cốt lòi về bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
1.1.1.2. Khái niệm dân chủ cơ sở
Theo quan niệm triết học, “Cơ sở là những yếu tố ban đầu, là điểm xuất phát để hình thành nên sự vật, là nền móng, nền tảng tạo nên sự vật đó. Sự vật là gì và như thế nào đều tùy thuộc từ chất lượng của cơ sở”[21].
Theo TS. Trương Hồ Hải: “Ở bất cứ đất nước nào, xã hội nào, tổ chức nào, nếu xét theo cấu trúc thì cũng bao gồm một hệ thống từ nhỏ đến lớn. Mà những cấu trúc nhỏ này nếu xét trong một hệ thống thì nó có tư cách như một chỉnh thể tương đối hoàn chỉnh, độc lập nhưng lại có sự thống nhất tạo nên một nền tảng cho toàn bộ hệ thống thì đó được gọi là cơ sở”[7, tr.209].
Cơ sở là “tế bào” của hệ thống. Cơ sở là không gian quản lý nhỏ nhất của nhà nước đối với xã hội, là “địa chỉ” cuối cùng, là “điểm đến” cuối cùng của quản lý nhà nước. Hệ thống quản lý nhà nước của nước ta được tổ chức thành 4 cấp: trung ương, tỉnh, huyện và xã (cơ sở) là cấp cuối cùng. Phường là cấp cơ sở ở đô thị; xã và thị trấn là cấp cơ sở ở khu vực nông thôn.
Vậy xét tổng thể, cơ sở với tư cách là xã, phường, thị trấn có những đặc điểm sau:
+ Là đơn vị hành chính thấp nhất - xét về mặt không gian quản lý, là nền tảng của nhà nước, của đời sống kinh tế - xã hội.
+ Là nơi thể hiện trực tiếp, cụ thể bản chất của chế độ nhà nước; sự hoàn thiện hay hạn chế, yếu kém của thể chế, cơ chế và mô hình tổ chức quyền lực; thể hiện trực tiếp, cụ thể thái độ của người dân, là nơi mà việc làm, đời sống, tâm tư, nguyện vọng của người dân được bộc lộ đầy đủ, rò rệt và cũng là nơi thể hiện, đánh giá trực tiếp hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở.
+ Cơ sở nơi trực tiếp thực hiện đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, là nơi kiểm nghiệm một cách chính xác nhất đường lối của Đảng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa trong thực tiễn khách quan; vừa là nơi khơi nguồn cho sự hình thành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước.
Dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện trước hết là ở cơ sở. Dân chủ thực sự chỉ khi các quyền con người được thực hiện trước hết ở cơ sở, từng người dân có quyền được biết, được bàn, được tham gia giải quyết và kiểm tra giám sát mọi hoạt động diễn ra ở cơ sở. Lúc đó quyền con người, quyền công dân mới trở thành hiện thực.
Dân chủ ở cơ sở được thực hiện dưới hình thức gián tiếp và trực tiếp, là hình thức nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng cách trực tiếp thể hiện ý chí, nguyện vọng đối với những vấn đề về tổ chức và hoạt động ở cơ sở. Dân chủ trực tiếp là hệ thống báo động nhạy cảm nhất những vấn đề về chính trị, kinh tế, văn hóa. Dân chủ trực tiếp giúp cho Đảng và Nhà nước kiểm nghiệm chính sách pháp luật một cách nhanh nhất, sát với thực tế khách quan, khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa chính quyền với nhân dân.
Theo GS.TSKH Đào Trí Úc: “Dân chủ ở cơ sở là một đòi hỏi tất yếu của quá trình thực hiện dân chủ ở nước ta. Thực hiện tốt và đẩy mạnh dân chủ cơ sở không chỉ đơn thuần là một phản ứng chính trị của Đảng và Nhà nước trước tình hình phức tạp của những điểm nóng ở cơ sở mà nó thể hiện cái nhìn hướng tới cơ sở, coi trọng cái gốc ở cơ sở nên nó mang tính chiến lược, căn bản, lâu dài”[26, tr.47].
Tăng cường, hoàn thiện và thực hiện dân chủ thực sự là mục tiêu lâu dài và thường xuyên của Đảng và Nhà nước. Mỗi bước phát triển của dân chủ phải được ghi nhận bởi các quy định của pháp luật. Dân chủ phải gắn liền với pháp luật và thi hành pháp luật. Song việc phát huy và mở rộng dân chủ phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí, truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của mỗi cộng đồng, dân chủ gắn liền với kỷ cương.
1.1.1.3. Khái niệm thi hành pháp luật dân chủ cơ sở
Theo các giáo trình lý luận về nhà nước và pháp luật được giảng dạy tại nhiều cơ sở đào tạo pháp luật ở Việt Nam một thời gian dài trước đây, "thi hành pháp luật" được xác định là một trong bốn hình thức thực hiện pháp luật. Cụ thể, theo giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật của Đại học Luật Hà Nội ấn hành năm 2013 thì "thực hiện pháp luật là hành vi thực tế, hợp pháp, có mục đích của các chủ thể pháp luật nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào đời sống, trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật".
Thực hiện pháp luật được biểu hiện dưới bốn hình thức, bao gồm: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật[13, tr.396]. Theo đó, "thi hành pháp luật" được hiểu là nghĩa vụ pháp lý của chủ thể pháp luật được hiện thực hóa thông qua hành động tích cực của chủ thể này.
Cách hiểu “thi hành pháp luật” với tư cách là một trong 4 hình thức thực hiện pháp luật như vậy có nội dung quá hẹp, chưa thực sự sát với ý nghĩa đích thực của cụm từ “thi hành pháp luật” được sử dụng trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam. Tra cứu lịch sử pháp luật Việt Nam thời hiện đại, thuật ngữ “thi hành pháp luật” đã xuất hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng của Việt Nam từ khá sớm. Ngay từ Hiến pháp năm 1946, khi quy định về thẩm quyền của Chính phủ và cơ quan hành chính ở địa phương, Hiến pháp đã quy định rò thẩm quyền “thi hành” pháp luật của các cơ quan này. Cụ thể, Điều thứ 52 Hiến pháp năm 1946 quy định Chính phủ có quyền “thi hành các đạo luật và quyết nghị của Nghị viện”; Điều thứ 59 Hiến pháp năm 1946 quy định Ủy ban hành chính có trách nhiệm “thi hành các mệnh lệnh của cấp trên”. Trong Hiến pháp năm 1959, Điều 50 có quy định Quốc hội có quyền “giám sát việc thi hành Hiến pháp”, Điều 73 quy định Hội đồng Chính phủ có quyền “kiểm tra việc thi hành những nghị định”, Điều 74
quy định Hội đồng Chính phủ có quyền “đình chỉ việc thi hành những nghị quyết không thích đáng của Hội đồng nhân dân tỉnh”, Điều 75 có sử dụng cụm từ “thi hành pháp luật”. Hiến pháp năm 1980 có nhắc tới nội dung toàn thể nhân dân Việt Nam “ra sức thi hành Hiến pháp”; Điều 98 quy định Hội đồng nhà nước “giám sát việc thi hành Hiến pháp, các luật, pháp lệnh”; Điều 107 quy định Hội đồng Bộ trưởng có nhiệm vụ “bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật”. Tại Điều 112 (Khoản 2) Hiến pháp năm 1992 quy định Chính phủ có trách nhiệm “bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật”. Thêm vào đó, “thi hành pháp luật” cũng không phải chỉ là hành vi của cơ quan công quyền mà còn là hành vi của người dân, doanh nghiệp bởi lẽ Điều 9 Hiến pháp năm 1992 có quy định “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam… động viên nhân dân… nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật”.
Hiến pháp năm 2013 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là “Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp luật, nghị quyết của UBTVQH, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước” (khoản 1 Điều 96), Thủ tướng Chính phủ có nhiệm vụ: “Lãnh đạo tổ chức thi hành pháp luật” (khoản 1 Điều 98); Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ có nhiệm vụ: “Tổ chức thi hành và theo dòi việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnhvực trong phạm vi toàn quốc” (khoản 1 Điều 99); Chính quyền địa phương có nhiệm vụ: “Tổ chức đảm bảo việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương” (khoản 1 Điều 112); và Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp có nhiệm vụ: “Tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương” (khoản 2 Điều 114).
Như vậy, cụm từ “thi hành pháp luật” phải được hiểu không chỉ bó hẹp là hành vi thực hiện nghĩa vụ luật định của chủ thể pháp luật (cơ quan, tổ chức, cá nhân). Thay vào đó, thi hành pháp luật phải được hiểu là tất cả các dạng hành vi xử sự thực tế của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội theo đúng các yêu cầu mà pháp luật quy định. “Thi hành pháp luật” như thế sẽ bao