Những Cơ Sở Hình Thành Thế Giới Nghệ Thuật Của Nguyên Hồng


Còn Không gian nghệ thuật “là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó” [52, tr. 134]. “Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian nên mang tính chủ quan, ngoài không gian vật thể có không gian tâm tưởng”; “không gian nghệ thuật không chỉ cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng trưng mà còn cho thấy quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay của một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan để khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các hình tượng nghệ thuật” [52, tr. 135].

Ngôn ngữ nghệ thuật cũng chính là một yếu tố, một phương diện quan trọng trong Thế giới nghệ thuật, bởi: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” (M.Gorki), ngôn ngữ chính là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học. Với khái niệm “Văn học được coi là loại hình ngôn từ” [52, tr. 215], thì ngôn ngữ là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên Thế giới nghệ thuật của nhà văn. Do đó, khi nghiên cứu Thế giới nghệ thuật của nhà văn không thể không nghiên cứu những đặc điểm về ngôn ngữ nghệ thuật của tác giả đó. Khảo sát ngôn ngữ của các nhà văn hiện thực trước 1945, chúng tôi nhận thấy: các nhà văn hiện thực đều có ý thức đưa vào trong tác phẩm của mình ngôn ngữ đời thường rất mộc mạc, giản dị, giàu hình ảnh gắn với đời sống của nhân nhân lao động. Đó là thứ ngôn ngữ đa dạng, đa sắc thái, khi là thứ ngôn ngữ tự nhiên, sinh động, hóm hỉnh trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan; là thứ ngôn ngữ sắc sảo mang tính trào phúng sâu cay của Vũ Trọng Phụng; hay thứ ngôn ngữ chắc nịch và phong phú của Ngô Tất Tố; ngôn ngữ “bề bộn lấp lánh sự sống” trong văn Nguyên Hồng; ngôn ngữ lạnh lùng sắc sảo nhưng đầy sự thương cảm của Nam Cao… Chính thứ ngôn ngữ đa dạng mà phong phú đó đã góp phần tạo nên nét rất riêng của các nhà văn hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.

Tóm lại, có thể thấy rằng: Thế giới nghệ thuật là sự thống nhất chung của mọi yếu tố nghệ thuật trong tác phẩm văn học. Các yếu tố đó bao gồm: đề tài, chủ đề, nhân vật, thời gian, không gian và ngôn từ nghệ thuật,... mỗi yếu tố đều có đặc điểm riêng và tất cả góp phần thể hiện tư tưởng và phong cách nghệ thuật của nhà văn. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng, chúng tôi tập trung đi sâu vào nghiên cứu ba yếu tố chính, đó là: nhân vật, không gian, thời gian nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật, bởi hai yếu tố:


chủ đề và đề tài trong sáng tác của Nguyên Hồng cũng đã được nhiều người đề cập tới và hầu như đã được làm rò, do đó chúng tôi không đi vào hai yếu tố này trong khuôn khổ luận án của mình.

2.2. Những cơ sở hình thành Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng

Sự nghiệp sáng tác của Nguyên Hồng trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 khá đồ sộ. Ngót 50 năm cầm bút, Nguyên Hồng đã sáng tác được hơn 60 tác phẩm, trong đó có những sáng tác được đánh giá là mang đậm tính sử thi, đồ sộ và bề thế nhất của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Tác phẩm của Nguyên Hồng luôn thể hiện sự nhất quán về quan điểm nghệ thuật, đó là: “Nhà văn luôn đề cao ý nghĩa vai trò của văn chương nghệ thuật, khẳng định ý nghĩa cao quý của nghề cầm bút”, nhà văn (người nghệ sĩ) phải trung thực, chân thành trên trang viết, say mê tin tưởng vào cuộc sống; phải cần cù học hỏi và không ngừng sáng tạo” [134, tr. 134,135]. Quan niệm đó đã tạo nên sự thống nhất cao độ trong toàn bộ sáng tác của nhà văn từ nội dung phản ánh đến nghệ thuật biểu hiện. Tuy nhiên, để tìm hiểu đến tận cội nguồn những cơ sở tạo nên thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng, chúng ta không thể không nhắc tới các yếu tố như: xã hội, gia đình và chính bản thân con người với những tính cách và tình cảm của chính tác giả.

2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội

Nguyên Hồng sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh xã hội có nhiều sự kiện đặc biệt: Đất nước bị xâm lăng, nhân dân sống trong cảnh đói khổ, khốn cùng. Thực dân Pháp một mặt củng cố bộ máy thống trị, một mặt đẩy mạnh công cuộc khai thác thuộc địa nhằm vơ vét tài nguyên, khoáng sản đem về làm giàu cho "Mẫu quốc". Xã hội Việt Nam đang có sự chuyển biến toàn diện và sâu sắc. Một đất nước sống thuần bằng nông nghiệp vốn lạc hậu đã có nhiều sự thay đổi. Nhiều khu đô thị mới, nhiều khu công nghiệp khai khoáng mỏ, nhiều đồn điền... mọc lên. Những giai cấp, tầng lớp mới cũng xuất hiện (vô sản, tư sản, tiểu tư sản và tầng lớp dân nghèo thành thị) ngày càng đông đảo. Một lớp công chúng sinh hoạt theo lối Âu hóa cùng những quan điểm thẩm mĩ mới trong đời sống văn hóa, văn học mới đã hình thành.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 185 trang tài liệu này.


Năm 1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp các phong trào cách mạng, chúng tăng cường chính sách “Kinh tế chỉ huy” bóc lột sức người, sức của để cung ứng cho chiến tranh đế quốc. Cuộc khủng hoảng của nền kinh tế thế giới và thiên tai hoành hành đã tác động nặng nề đến tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam. Năm 1940, đế quốc Nhật nhảy vào đánh chiếm Đông Dương, thực dân Pháp đầu hàng, nhân dân ta lại phải chịu cảnh “Một cổ hai tròng" áp bức. Phát xít Nhật bắt dân ta phải nhổ lúa trồng đay, bông, thầu dầu, thuốc phiện... nộp cho chúng để phục vụ chiến tranh. Vì thế, đời sống của nhân dân ta vô cùng cực khổ, công nhân bị bóc lột nặng nề (làm việc từ 12 đến 14 tiếng một ngày); nông dân thì bị tô cao, thuế nặng; trí thức thì rơi vào tình trạng thất nghiệp; các nhà tư sản dân tộc bị chèn ép không ngóc đầu lên được... Mâu thuẫn giữa dân tộc ta và thực dân Pháp, giữa quần chúng lao động và bọn thống trị vốn đã âm ỉ từ lâu, nay càng trở nên sâu sắc, quyết liệt. Phong trào cách mạng, đặc biệt từ khi Đảng cộng sản Đông Dương ra đời ngày càng phát triển mạnh mẽ. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta diễn ra sôi nổi khắp nơi, với hàng loạt các cuộc đấu tranh của công nhân các nhà máy Xi măng Hải Phòng, nhà máy Dệt Nam Định, hãng dầu Xôcôni (Sài Gòn)... đòi tăng lương, giảm giờ làm, giảm tô thuế...

Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng thời kỳ trước năm 1945 - 6

Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nền văn hóa, văn học Việt Nam dần dần thoát khỏi ảnh hưởng của nền văn hóa phong kiến Trung Hoa, bắt đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây, đặc biệt là văn hóa Pháp. Những tư tưởng tiến bộ, nhất là tư tưởng Mácxít được tiếp nhận qua con đường Tân Thư (sách của các nhà tư tưởng dân chủ sản phương Tây được dịch sang tiếng Trung Quốc và của các nhà nho phái Duy Tân Trung Quốc; hoặc là sách báo tiến bộ) đã làm thay đổi nhận thức không chỉ của lớp thanh niên trí thức mà cả những nhà nho yêu nước. Lớp thanh niên trí thức Tây học ngày càng đông đảo và đóng vai trò quan trọng trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa, họ tiếp thu tư tưởng hiện đại của văn hóa, văn học phương Tây nên có những quan niệm thẩm mỹ mới, khác với những quan niệm của tầng lớp trí thức Nho học mà đến nay đã trở nên lỗi thời. Họ đã có những quan niệm mới về cuộc sống, con người, về thẩm mỹ. Điều đó dẫn đến một làn sóng văn hóa mới nhằm chống lại tư tưởng “phi ngã” của văn học trung đại phong kiến, đề cao, đấu tranh cho cái Tôi - cá nhân trong đời sống


thời kỳ hiện đại. Vì vậy, vào đầu những năm 1930 mối xung đột cũ - mới trong xã hội đã trở nên gay gắt và quyết liệt hơn.

Như đã nói, từ năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời và ngày càng có vai trò to lớn đối với sự phát triển của Cách mạng Việt Nam nói chung, và sự phát triển của đời sống văn hóa, văn học Việt Nam nói riêng. Đặc biệt, ở thời kỳ Mặt trận Dân chủ (1936 - 1939), với quan điểm Mác xít chân chính, các nhà văn cách mạng đã có những tác động rất mạnh mẽ đối với đời sống văn học nước nhà qua các bài viết, các cuộc tranh luận về bản chất, chức năng và nhiệm vụ của văn học đối với xã hội, đối với con người. Tiêu biểu là cuộc tranh luận: “Nghệ thuật vị nghệ thuật” “Nghệ thuật vị nhân sinh”. Những nhà văn có quan điểm Mác xít đã chủ trương: dùng văn học để phục vụ con người. Chính vì vậy, họ đã kiên quyết phản bác thứ văn chương “Nghệ thuật vị nghệ thuật”, họ dùng “ngòi bút lột trần cái xã hội hiện tại để cho dân chúng trông rò cái nguồn gốc của mọi đau thương mà tìm lấy con đường sống” (Tạp chí Tao Đàn, ra ngày 16/9/1939).

Một văn kiện quan trọng của Đảng về văn hóa văn nghệ ra đời, đó là cuốn Đề cương về Văn hóa Việt Nam(1943) - Đây chính là bản cương lĩnh văn hóa đầu tiên của Đảng ta - đã chỉ rò đường lối văn nghệ cho văn nghệ sĩ, đó là: xây dựng nền văn hóa Việt Nam trên ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng. Từ bản Đề cương về Văn hóa Việt Nam này mà nhiều văn nghệ sĩ đã tìm được hướng đi đúng đắn cho mình (trong đó có nhà văn Nguyên Hồng). Những hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ của Đảng đã có ảnh hưởng tích cực và ngày càng sâu rộng đối với sự phát triển của Văn học Việt Nam thời kỳ này cũng như về sau.

Cũng từ đầu thế kỷ XX, chữ Quốc ngữ đã hoàn toàn thay thế chữ Nôm. Chữ Quốc ngữ được phổ biến rộng rãi đã tạo điều kiện nâng cao dân trí cho mọi người, nhất là đối với tầng lớp công chúng thị dân. Cùng với nó, một số những nhà in, xuất bản theo công nghệ hiện đại ngày càng phát triển. Sách, báo, tạp chí đến với bạn đọc ngày càng nhiều hơn. Phong trào dịch thuật đầu thế kỷ XX cũng có tác động khá quan trọng tới sự hình thành và phát triển văn xuôi quốc ngữ. Sự phát triển của chữ Quốc ngữ đã phần nào làm cho tiếng Việt ngày càng trở nên hiện đại, uyển chuyển, tinh tế hơn. Tất cả các nhân tố trên đã tạo điều kiện chín muồi cho sự hình thành nền văn học Việt Nam hiện đại.


Như vậy, từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945, văn học Việt Nam từng bước phát triển theo hướng hiện đại hóa, với tốc độ ngày càng mau lẹ. Văn học phát triển đa dạng hơn, phong phú hơn với sự xuất hiện của nhiều khuynh hướng, nhiều trào lưu khác nhau như: trào lưu văn học cách mạng, trào lưu văn học lãng mạn, trào lưu văn học hiện thực phê phán. Mỗi trào lưu văn học đều có những đóng góp riêng đối với sự vận động và phát triển theo xu hướng hiện đại của nền văn học nước nhà. Văn học hiện thực phê phán cũng đã khẳng định được sự đóng góp to lớn của mình vào quá trình phát triển và hiện đại hóa văn học Việt Nam. Bởi Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX là một trào lưu văn học lớn. Đó là một trào lưu có sức cuốn hút và tập hợp nhiều cây bút đương thời, trong đó có nhiều nhà văn lớn của văn học hiện đại Việt Nam. Tên tuổi và những tác phẩm xuất sắc của một số nhà văn hiện thực tiêu biểu như: Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao... có sức hấp dẫn đối với nhiều thế hệ người đọc không chỉ ở thời điểm hiện tại mà còn cho đến tận hôm nay.

Nguyên Hồng là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của trào lưu văn học hiện thực phê phán. Người ta nhận thấy rất rò là: Hiện thực đen tối đầy máu và nước mắt của xã hội Việt Nam cùng với cuộc sống cơ cực, khốn khổ của những người dân lao động giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 là nguồn cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của nhà văn. Thành phố Hải Phòng đầy khói bụi với bao kiếp người khổ đau, bất hạnh luôn là đối tượng thẩm mỹ trong sáng tác của tác giả. Nhắc đến một Hải Phòng trong văn học là người ta nghĩ ngay đến tên tuổi nhà văn Nguyên Hồng, và ngược lại nhắc đến sự nghiệp sáng tác của Nguyên Hồng thì không thể bỏ qua những tác phẩm viết về con người cũng như mảnh đất đã góp phần nuôi dưỡng tài năng văn chương của ông. Nguyên Hồng không sinh ra tại Hải Phòng, nhưng những năm tháng đáng nhớ nhất trong cuộc đời ông đều gắn liền với từng góc phố, bến tàu, bến xe, xưởng máy... và những con người lam lũ cùng khổ nơi đất Cảng, nên Hải Phòng có ý nghĩa đặc biệt đối với cuộc đời nhà văn. Hải Phòng - một tỉnh duyên hải thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng, có hải cảng lớn nhất miền Bắc. Hải Phòng vừa có lợi thế kinh tế đường biển, đường bộ và hàng không. Chính vị trí địa lý thuận lợi như vậy đã khiến Hải Phòng trở thành một trung tâm công nghiệp lớn, thu hút nhiều nhân công lao động của các tỉnh như: Hà Tây, Hà Nội, Hưng Yên,


Nam Định, Thái Bình... đến sinh sống, lập nghiệp. “Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX dưới thời Pháp thuộc, Hải Phòng cùng với Sài Gòn có vai trò như những cửa ngò kinh tế của Liên bang Đông Dương trong giao thương với Quốc tế vùng Viễn Đông” (Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Hải Phòng). Trước năm 1945, Hải Phòng đã trở thành một trong những cái nôi đánh dấu sự ra đời của giai cấp công nhân và phong trào công nhân Việt Nam đấu tranh chống lại sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp. Hải Phòng cũng là một trong những trung tâm của phong trào cách mạng cả nước trong các cao trào Cách mạng: 1930 - 1931, 1936 - 1939 và 1939 - 1945. Hải Phòng trong những năm tháng đặc biệt ấy, đã có sự ảnh hưởng không nhỏ đến cảm hứng sáng tạo của Nguyên Hồng. Viết về những người nghèo đói, lầm than, bị lăng nhục, bị chà đạp đến thảm hại để phản ánh, tố cáo xã hội đương thời, và cũng để khẳng định những bản chất đẹp đẽ, lương thiện của những con người lao động - Đó là niềm đam mê và cũng là khát vọng sáng tác của Nguyên Hồng giai đoạn trước Cách mạng. Đặc biệt là sau khi được tiếp xúc với báo chí cách mạng, như: năm 1937, Nguyên Hồng được đọc Tuyên ngôn Đảng cộng sản của Các Mác và Ăng ghen, Vấn đề dân cày của Qua Ninh và Vân Đình, Ngục Kontum của Lê Văn Hiến... Năm 1943, khi được tiếp nhận tư tưởng cách mạng trong Đề cương về văn hóa Việt Nam của Đảng cộng sản, và là một trong những Hội viên đầu tiên của Hội Văn hóa cứu quốc… thì nhà văn càng hiểu sâu sắc hơn nguyên nhân nỗi khốn khổ của mọi tầng lớp người lao động trong xã hội. Điều đó đã giúp Nguyên Hồng mài sắc thêm ý chí chiến đấu, hướng ngòi bút của mình về những con người cần lao đau khổ. Nguyên Hồng xứng đáng được gọi là “Nhà văn chân chính của những người cùng khổ”, “Nhà văn của niềm tin và ánh sáng” [134].

Như đã nói, Nguyên Hồng đã từng sống ở Hải Phòng - một trong những trung tâm của phong trào đấu tranh đòi quyền dân chủ, đòi quyền sống cho con người của nước ta lúc bấy giờ, nên ông đã sớm được giác ngộ lý tưởng cách mạng và đã tham gia vào phong trào Mặt trận Dân chủ. Ánh sáng của lý tưởng cách mạng đem đến cho nhiều trang viết của Nguyên Hồng vượt qua phạm trù phản ánh của trào lưu văn học hiện thực phê phán, gần gũi với nội dung phản ánh của trào lưu văn học cách mạng. Có lẽ, trong các nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 1930 - 1945, ở Nguyên Hồng có sự giao thoa rò nhất giữa hai


khuynh hướng văn học: văn học hiện thực phê phán và văn học cách mạng. Vì vậy, quan điểm nghệ thuật của Nguyên Hồng rất đúng đắn và tiến bộ. Bước vào nghề văn, ông đã xác định được ngay con đường và chỗ đứng của mình: “Là người viết văn trong đám những người nghèo đói, đau khổ và lầm than” (Bước đường viết văn). Chính vì thế mà hầu như toàn bộ thế giới nhân vật của ông là thế giới những người lao động nghèo khổ, dưới đáy xã hội, có số phận bất hạnh, có cuộc đời chứa đầy bi kịch, khổ đau và bế tắc. Đồng thời, Nguyên Hồng cũng thể hiện rò quan điểm và mục đích sáng tác: “Tôi sẽ viết về những cảnh đời đói khổ, về sự áp bức, về nỗi trái ngược, bất công. Tôi cũng sẽ đứng về những con người bị đày đọa, bị lăng nhục. Tôi cũng sẽ vạch trần ra những vết thương xã hội, những việc làm lộng hành thời bấy giờ” (Bước đường viết văn). Quan niệm nghệ thuật đó đã chi phối toàn bộ sáng tác của Nguyên Hồng, tạo ra sự nhất quán trong tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Đó cũng là một trong những cơ sở quan trọng tạo nên một Thế giới nghệ thuật riêng biệt mang đậm dấu ấn Nguyên Hồng trong quá trình sáng tác hơn 50 năm của mình.

2.2.2. Hoàn cảnh gia đình, môi trường sống và hoạt động văn học của Nguyên Hồng

Nguyên Hồng tên thật là Nguyễn Nguyên Hồng, sinh 05 tháng 11 năm 1918 tại Nam Định. Sinh trưởng trong một gia đình theo đạo Thiên chúa đã từng có một thời khá giả. Người cha làm cai ngục nhưng sau khi mất việc thì sa vào nghiện ngập, sống cô độc, u uất. Người mẹ xinh đẹp, hiền dịu, tảo tần, nhưng luôn buồn rầu, nặng trĩu ưu tư. Nguyên Hồng không có được tuổi thơ tươi đẹp trong một gia đình hạnh phúc, bởi: “Hai thân tôi lấy nhau không phải vì quen biết nhau lâu mà thương yêu nhau. Chỉ vì hai bên cha mẹ, một bên hiếm muộn cháu và có của, một bên sợ nguy hiểm giữ con gái đẹp trong nhà và muốn cho người con gái ấy có chỗ nương tựa chắc chắn” (Những ngày thơ ấu). Người mẹ của Nguyên Hồng phải sống một cuộc sống nhẫn nhục bên người chồng già lạnh lùng, gia trưởng; sống một cách thầm lặng và đầy buồn tủi ở gia đình nhà chồng, sống “Như một cái bóng ngắn của bức tường dày mãi mãi thần phục ở dưới chân để rồi sẽ tan xuống đất nếu ánh sáng soi tắt” (Những ngày thơ ấu). Cả tuổi ấu thơ Nguyên Hồng phải sống trong bầu không khí bình yên một cách gượng gạo của gia đình, là sự cảm nhận nỗi đau âm thầm, nhẫn nhục, buồn tủi, chịu đựng của người mẹ, và trong sự u uất, câm lặng của người cha…


Năm 12 tuổi, chú bé Hồng bị mồ côi cha, mẹ đi bước nữa và phải đi làm ăn xa, chú sống chủ yếu với bà nội và thường xuyên phải chịu sự hắt hủi của những bà cô ruột vì “tội” có một người mẹ chưa đoạn tang chồng đã đi bước nữa. Đó là những năm tháng bơ vơ, côi cút, cùng cực, đắng cay nhất của chú bé Hồng: sống một cuộc đời không có tuổi thơ, thiếu thốn về tất cả - thiếu ăn, thiếu mặc và đặc biệt thiếu tình thương yêu chăm sóc của người thân. Trong những nhà văn hiện thực phê phán trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, có lẽ hoàn cảnh của Nguyên Hồng thuộc diện đặc biệt nhất và đáng thương nhất, (Thạch Lam cũng bị mồ côi cha từ nhỏ nhưng lại được sống trong sự đùm bọc của mẹ và chị trong cảnh gia đình đầm ấm; Vũ Trọng Phụng cũng sớm mồ côi cha, nhưng cũng được bà mẹ đành thân góa bụa nuôi ăn học cho đến ngày khôn lớn...). Nguyên Hồng cơ cực và cay đắng hơn hơn rất nhiều. Năm 14 tuổi, Nguyên Hồng đã phải nếm trải cảnh tù tội (vì bảo vệ bà mẹ đẻ bị chú dượng đánh đập dã man, Nguyên Hồng uất ức quá đã chém ông ấy một nhát vào bả vai). Cậu tù trẻ con cô đơn đau khổ này đã từng phải ôm mặt khóc mỗi khi đi làm “cỏ vê” về, khóc ngay dưới gốc cây, bên cạnh xe bò rác và lại vội vội, vàng vàng lấy vạt áo chùi nước mắt khi thấy người lạ đi qua. Rồi đến năm 16 tuổi, Nguyên Hồng đã phải thôi học, rời quê hương và người bà mộ đạo, theo mẹ và chú dượng ra Hải Phòng để kiếm sống trong xóm chợ nghèo. Cảnh ngộ ấy đã ném Nguyên Hồng vào môi trường sống của những người cùng khổ nhất trong xã hội cũ. Nguyên Hồng phải lăn lộn trong đời sống của những người dân nghèo thành thị để tự kiếm sống bằng đủ mọi nghề nơi vườn hoa, cổng chợ, bến phà,... chung đụng với đủ hạng trẻ con hư hỏng, làm đủ mọi nghề như: đi ở, bán báo, bán xôi, bán chè, bế em hoặc ăn xin, ăn cắp, làm thuê, làm mướn... Bản thân Nguyên Hồng và gia đình cũng phải sống trong túp lều “trông ra vũng nước đen ngầu bọt và chuồng lợn ngập ngụa phân tro”, nhiều đêm mưa dầm gió bấc, Nguyên Hồng và người chú dượng phải nằm “trên một chiếc phản lung lay, hai thân hình nhọc lả, co quắp trong một chiếc chăn rách mướp”. Rồi phải chịu cảnh thất nghiệp, muốn sống mà không có việc làm để sống, nhiều lúc Nguyên Hồng đã bị ám ảnh bởi cái chữ đen tối khủng khiếp: cái chết! Nhưng mảnh đất Hải Phòng cần lao đã giúp Nguyên Hồng đứng dậy và cũng chính bởi môi trường sống đặc biệt đó đã giúp nhà văn am hiểu một cách sâu sắc đời sống xã hội đương thời, bồi đắp thêm vốn sống về cuộc đời tối tăm, lam lũ của những con

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 20/07/2022