Về Ngôn Ngữ, Giọng Điệu Nghệ Thuật


tú (NSƯT) Đào Quang nhận thấy mối quan hệ gắn bó giữa văn học và sân khấu mà sáng tác của nhà văn Nguyên Hồng là một ví dụ. Tác giả nhận xét: “Chất kịch và chất sân khấu đậm đặc trong văn Nguyên Hồng”, “Tiểu thuyết và truyện ngắn của Nguyên Hồng đầy ắp chất kịch”… “Nhân vật của Nguyên Hồng thường được đặt trong những tình thế hết sức căng thẳng, buộc phải lựa chọn để tìm sự giải quyết cho mình... Chính vì vậy, sáng tác của Nguyên Hồng giàu chất kịch và chất sân khấu” [Chất kịch và chất sân khấu trong văn Nguyên Hồng - 119]… Chính nhờ chất kịch và chất sân khấu ấy mà văn xuôi Nguyên Hồng không chỉ làm xúc động những độc giả yêu thích văn chương Nguyên Hồng, mà nó còn “có một sức tác động và cảm hóa thật thấm thía và mạnh mẽ khôn lường, gần như thôi miên đám đông khán giả, tạo nên cảm xúc thăng hoa trong thưởng thức của người xem như từng đợt sóng dâng trào bất tận” [119].

Có thể thấy rằng, đã có khá nhiều ý kiến nhận xét về đặc điểm nhân vật của Nguyên Hồng, về thành công cũng như hạn chế trong cách xây dựng nhân vật của nhà văn. Tuy nhiên các ý kiến đó vẫn là những nhận xét, nhận định chung có tính khái quát. Các tác giả chưa đi sâu vào đặc điểm của từng loại nhân vật cũng như nghệ thuật xây dựng từng loại nhân vật ấy của Nguyên Hồng - nhất là trong những sáng tác của ông ở giai đoạn trước năm 1945.

1.2.4. Về không gian và thời gian

Về Thời gian và không gian nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, qua khảo sát, chúng tôi thấy không có nhiều ý kiến về vấn đề này. Tuy nhiên, trong công trình nghiên cứu “Nguyên Hồng, con người và sự nghiệp” tác giả Nguyễn Đăng Mạnh đã ít nhiều đề cập đến không gian và thời gian trong sáng tác của Nguyên Hồng. Nhận xét chung về toàn bộ sáng tác của Nguyên Hồng trước và sau Cách mạng tháng Tám, tác giả đã khẳng định: “dù ông viết về nơi đâu, thuộc địa chỉ nào, người đọc cũng như cảm thấy mở ra trước mắt cảnh vật, con người và không khí của thành phố Hải Phòng”… “Tất cả diễn ra dưới cái nắng chói chang và màu hoa phượng vĩ cũng rất tiêu biểu cho cảnh sắc của thành phố Hải Phòng” [116, tr. 98,99]. Đây là một nhận xét rất chính xác về một đặc điểm nổi bật trong các sáng tác của Nguyên Hồng kể từ những tác phẩm đầu tay trước 1945 cho đến bộ tiểu thuyết Cửa biển sau Cách mạng.


Trong công trình nghiên cứu “Thi pháp hoàn cảnh trong tác phẩm của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng và Nam Cao”, tác giả Phạm Mạnh Hùng đã đi sâu nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh trong văn xuôi hiện thực thời kỳ 1930 - 1945. Trong chuyên luận này, tác giả nhấn mạnh đến “mối quan hệ giữa tính cách và hoàn cảnh” [79, tr. 7] khi nghiên cứu trào lưu văn học hiện thực phê phán. Tác giả đã chú ý nói về yếu tố thiên nhiên, và cho rằng: thiên nhiên “nhiều khi nó là yếu tố biểu hiện tâm lý. Và đứng ở góc độ hoàn cảnh nghệ thuật, nó có thể là yếu tố tạo không khí cho hoàn cảnh” [79, tr. 316]. Tuy không trực tiếp bàn về không gian, thời gian trong sáng tác của Nguyên Hồng, nhưng những “quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh” trong Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Giông tố (Vũ Trọng Phụng), Sống mòn và một số truyện ngắn tiêu biểu của Nam Cao - những tác phẩm của các tác giả cùng khuynh hướng, cùng thời với Nguyên Hồng - là cơ sở và những gợi ý thiết thực để chúng tôi tìm hiểu về không gian, thời gian nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng.

Khi nghiên cứu về Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, GS.TS. Trần Đăng Suyền cũng chỉ ra sự khác biệt về không gian, thời gian nghệ thuật trong sáng tác Nguyên Hồng so với các nhà văn cùng thời, đó là: “không có những xung đột giai cấp như tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố mà là một vùng quê tăm tối, cổ hủ hàng trăm năm bị giam hãm, trói buộc bởi những luật lệ nghiệt ngã, vô lý của lễ giáo phong kiến” [135, tr. 422]đó là:“không gian rùng rợn nặng nề với những cảnh cướp giật, chết người”… không gian của “những nhà chứa nhớp nhúa, tanh tưởi, hôi hám”… “không gian của một xã hội gian phi” [135, tr. 423]. Đây là một nhận xét rất chính xác trên cái nhìn tổng quan về không gian nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng trong sự đối sánh với các tác giả cùng khuynh hướng hiện thực khác đương thời.

Trong luận án: “Không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết hiện thực phê phán 1930 -1945 qua một số tác phẩm tiêu biểu” (2009), tác giả Phạm Hồng Lan đã chọn vấn đề nghiên cứu về không gian và thời gian trong tiểu thuyết Bỉ vỏ của Nguyên Hồng. Tác giả luận án đã có một số nhận xét cụ thể về đặc điểm thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết này là: “thời gian đêm tối”,(“những sự kiện của cuộc đời nhân vật chính diễn ra trong đêm tối”) và thời gian này rất “phù hợp với nhân vật hành động” [85, tr. 119,120); cụ thể hơn nữa là: “Thời gian tâm


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 185 trang tài liệu này.

trạng trong Bỉ vỏ là thời gian dằng dặc, lê thê kéo dài vô tận” [85, tr. 129]... Không gian trong Bỉ vỏ là không gian nông thôn “tăm tối tù đọng và ngột ngạt bởi những hủ tục lạc hậu”; là không gian thành thị “là nơi cuốn con người vào vòng quay tội lỗi”... Và “Việc mở rộng không gian nghệ thuật gắn liền với cảm hứng phân tích xã hội của Nguyên Hồng. Xã hội Việt Nam trước cách mạng chỉ có thể là môi trường sản sinh ra cái xấu và cái ác, ở trong môi trường đó, con người không thể giữ được nhân phẩm mà ngược lại bị môi trường làm cho tha hóa. Với sự mở rộng không gian, dường như Nguyên Hồng đã có ý thức sâu sắc hơn về sự tác động của môi trường, hoàn cảnh sống lên thân phận con người” [85, tr. 42]. Do mục đích và giới hạn của mục tiêu nghiên cứu, tác giả luận án cũng mới chỉ dừng lại ở những nhận xét, những phân tích về không gian, thời gian trong một cuốn tiểu thuyết tiêu biểu là Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, chứ chưa nghiên cứu tất cả các tác phẩm khác trong giai đoạn sáng tác trước 1945 của ông.

Tác giả Lê Hồng My trong chuyên luận Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng cũng nhắc đến không gian trong sáng của Nguyên Hồng, đó là: “không gian sinh hoạt tăm tối”,“không gian và cảnh vật triền miên trong trạng thái nặng nề”,“không gian giam cầm đầy đọa con người” [101, tr. 38,39]. Còn nhà đạo diễn sân khấu - NSƯT Đào Quang bước đầu chỉ ra: “Trong tiểu thuyết và truyện ngắn của Nguyên Hồng, không gian và thời gian được miêu tả rất chi tiết làm thành môi trường sống cụ thể, thành khung cảnh sinh động sắc nét của các nhân vật sống và tồn tại... Không gian ấy là mảnh đất Hải Phòng trước Cách mạng tháng Tám với những khu phố nghèo, chen chúc người cư ngụ, với những căn nhà lụp xụp, tăm tối, ngột ngạt là môi trường không gian quen thuộc trong những trang văn đầy ắp những chi tiết sinh động, chân thực và dạt dào cảm xúc của Nguyên Hồng” [Chất kịch và chất sân khấu trong văn Nguyên Hồng - 119].

Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng thời kỳ trước năm 1945 - 4

Tóm lại, có thể thấy rằng các nhà nghiên cứu trên đều đã chỉ ra: không gian nghệ thuật của Nguyên Hồng chủ yếu là không gian Hải Phòng - một không gian tăm tối ngột ngạt, bế tắc đại diện cho cả một xã hội Việt Nam nói chung trước Cách mạng tháng Tám. Không gian ấy đã đầy đọa, bủa vây những con người lao động bần cùng, đẩy họ xuống tận bùn đen của sự đói rách. Không gian này có tác dụng hữu hiệu trong nghệ thuật xây dựng tính cách và bản chất nhân vật.


1.2.5. Về ngôn ngữ, giọng điệu nghệ thuật

Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật trong những sáng tác của Nguyên Hồng trước Cách mạng, chúng tôi thấy rằng đã có các tác giả như: Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đăng Điệp, Chu Nga, Lê Hồng My, Nguyễn Minh Châu, Linh Thi... đề cập đến ở một số phương diện như sau:

Nghiên cứu sáng tác của Nguyên Hồng cả hai giai đoạn trước và sau cách mạng, Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng, giọng điệu văn Nguyên Hồng “ Là giọng văn thống thiết của một tâm hồn nồng nhiệt” [116, tr. 101], giọng văn “cuồn cuộn, sục sôi, hăm hở tràn đầy cảm xúc dù là kể việc, vẽ người hay tả cảnh” [116, tr. 100].

Khi đọc Những ngày thơ ấu, tác giả Nguyễn Đăng Điệp đã chỉ ra những nét đặc sắc trong hồi ký Nguyên Hồng: “Không chỉ viết truyện mà ngay cả với hồi ký, văn Nguyên Hồng là thứ văn dạt dào xúc cảm. Trên những dòng chữ lấp lánh ánh lửa lòng nồng ấm, và sau nó là “giọt lệ lớn” của một trái tim dễ xúc động” [116, tr. 233]… “thứ văn giàu tình cảm, nồng say”… “chất thơ, chất trữ tình trội át chất phân tích tự sự” [116, tr. 234]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp đã rất tinh tế khi cảm nhận giọng điệu trữ tình đầy xúc cảm qua hồi ký của Nguyên Hồng. Tác giả Nguyễn Minh Châu cũng đồng quan điểm này khi nhận xét câu văn Nguyên Hồng có “cái mập mạp khỏe khoắn đầy chất "đời sống cần lao” của ngay cú pháp” (…) Nguyên Hồng viết văn như một ông lão thợ đấu cứ lễ mễ vác từng mảng thực tế sự đời mà huỳnh huỵch đắp lên mặt giấy [116, tr. 379)].. Chu Nga khi viết về quá trình sáng tác của Nguyên Hồng có nhấn mạnh đến giọng điệu riêng biệt của ông so với các nhà văn khác cùng thời, cùng khuynh hướng, "Tiếng nói mới, riêng biệt của Nguyên Hồng góp vào dòng văn học hiện thực phê phán về căn bản vẫn là tiếng nói yêu thương, nhân đạo, có phê phán nhưng không mỉa mai trào lộng như Nguyễn Công Hoan, không chì chiết và đau đớn như Nam Cao, hay sâu cay nặng nề như Ngô Tất Tố” [116, tr. 158]. Tác giả Chu Nga đã chỉ ra sự khác biệt về giọng điệu của Nguyên Hồng so với các nhà văn khác cùng khuynh hướng, cùng thời với ông, mà chưa đi sâu vào từng đặc điểm lời văn cũng như giọng điệu của Nguyên Hồng.

Linh Thi cảm nhận đặc điểm câu văn Nguyên Hồng:“câu văn Nguyên Hồng cứ ngồn ngộn, ngồn ngộn chi tiết, đôi khi được chất lên, được tấp lên, được


chằng buộc đến ngốt mắt” [116, tr. 239]... “Đúng là câu văn của Nguyên Hồng lúc nào cũng như con cá đang thở gấp, lúc nào cũng cựa quậy, phập phồng sự sống, lấp lánh sự sống” [116, tr. 240], “như một cái cây sum sê, lúc lỉu những thành phần, như một đoàn tàu chợ” [116, tr. 240]...

Nhìn lại một trong những sáng tác đầu tay của Nguyên Hồng, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thiện chỉ ra và nhấn mạnh đến giọng điệu “thống thiết” của cuốn tiểu thuyết tự truyện Những ngày thơ ấu:“Sức sống mạnh mẽ, giọng điệu thống thiết, đằm thắm, tình cảm tươi mới, trẻ trung, lúc nào cũng biểu hiện ở cường độ cao, mãnh liệt, cảnh sắc rực rỡ, âm thanh náo động trong văn Nguyên Hồng luôn có sức thu hút người đọc”, (Những ngày thơ ấu - cuốn hồi ký tự truyện đặc sắc, mở đầu cho một thể tài của văn học Việt Nam hiện đại - 119).

Cuốn sách chuyên luận của tiến sĩ Lê Hồng My: Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng đã nghiên cứu và tiếp cận sáng tác của Nguyên Hồng từ góc độ: Lời văn nghệ thuật trên phạm vi toàn bộ sáng tác trước và sau Cách mạng tháng Tám của nhà văn. Trong chuyên luận này, tác giả đã phân tích một cách kỹ lưỡng, chuyên sâu Phương thức tổ chức lời văn nghệ thuật. Đó là “Nguyên tắc cụ thể hóa tới mức tối đa, bão hòa đối tượng phản ánh của lời văn”… tác giả đã phân tích cụ thể các thành phần cơ bản trong lời văn nghệ thuật như: lời trần thuật, lời đối thoại của nhân vật, lời độc thoại nội tâm… và những phương thức tu từ đặc sắc tạo hiệu quả thẩm mỹ cho lời văn như: tiếng lóng, biệt ngữ tôn giáo, từ láy, phép điệp ngữ,... trong sáng tác của nhà văn. Đây là một chuyên luận chuyên sâu về một yếu tố trong Thế giới nghệ thuậtcủa Nguyên Hồng, đó là Lời văn nghệ thuật của Nguyên Hồng cả hai giai đoạn trước và sau năm 1945. Kết quả nghiên cứu này của tiến sĩ Lê Hồng My là tư liệu thiết thực khi chúng tôi nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyên Hồng giai đoạn trước năm 1945.

Về nghệ thuật sáng tạo ngôn ngữ của Nguyên Hồng, PGS.TS. Đoàn Trọng Huy

[119] cũng khẳng định: “Nguyên Hồng có nhiều hứng khởi để sáng tạo, đổi mới trên lĩnh vực văn xuôi. Nghệ thuật ngôn từ phát triển do đi sâu vào đời sống nhiều mặt phong phú và hết sức sinh động” (Nguyên Hồng, từ cái nhìn thế kỷ)…

Ngoài ra, chúng tôi còn thấy có một số bài nghiên cứu đi vào tìm hiểu những phương diện khác trong sáng tác của Nguyên Hồng như: Cảm quan tôn giáo trong sáng tác của Nguyên Hồng (Đào Đức Doãn), tác giả này cho rằng:


“Trong sự tiếp thu tôn giáo, Nguyên Hồng không bị cuốn đi bởi sự mê muội mà luôn chắt lọc, một sự chắt lọc tự nhiên - lấy phần nhân văn cao cả của nó. Đó là tinh thần tôn giáo hiểu theo nghĩa như là đức tin tuyệt đối về sự hy sinh cao cả (…). Và nhất là lúc nào cũng tin ở con người” [20, tr. 1]. Tiến sĩ Bạch Văn Hợp cũng đồng quan điểm này và cắt nghĩa nguồn gốc cảm hứng thương cảm của Nguyên Hồng là “việc tiếp nhận những ảnh hưởng của tư tưởng bác ái Thiên Chúa giáo ở Nguyên Hồng có quá trình lịch sử và có mức độ đậm, nhạt khác nhau trên từng chặng đường sáng tác. Thời kỳ đầu, sáng tác của Nguyên Hồng có ảnh hưởng của tinh thần bác ái Thiên Chúa giáo trên phương diện nội dung tư tưởng, tình cảm lẫn hình thức biểu hiện. Từ khi tiếp nhận được ánh sáng của lý tưởng Cách mạng, sáng tác của ông chỉ còn dấu vết ảnh hưởng của đạo Thiên Chúa ở hình thức biểu hiện các trạng thái tâm lý nhân vật mà thôi. Mặt khác, có lẽ Nguyên Hồng không hiểu nhiều lắm về những triết lý sâu xa của đạo Thiên Chúa nên sự ảnh hưởng của nó đối với nhà văn rất hồn nhiên và phù hợp với cuộc sống cũng như cá tính của ông. Đó là cái ý nghĩa nhân văn đích thực của Thiên Chúa giáo phù hợp với đạo lý của người lao động mà Nguyên Hồng đã tiếp thu được qua trường học cuộc đời” [78; tr. 6].

Về vấn đề Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng còn một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đã quan tâm đề cập đến ở một số phương diện, ví dụ như:

Luận án tiến sĩ “Sự vận động của dòng văn học hiện thực Việt Nam 1930 - 1945 (qua khảo sát tiểu thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao)”, tác giả Nguyễn Duy Tờ đã chỉ ra những đóng góp riêng biệt của các tác giả Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao - thông qua việc khảo sát và phân tích hai thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Về Nguyên Hồng, tác giả luận án đã đưa ra những nhận xét cơ bản về cảm hứng sáng tạo của nhà văn: “Ông viết, ngay từ những trang văn đầu tay, cuộc sống của đám lưu manh, cảnh sát, mật thám, đĩ điếm... với những hành vi phản bội, dối lừa... Ngòi bút của ông bị lôi cuốn mạnh mẽ theo chiều quan sát muốn ghi lấy, chép lấy, không bỏ sót. Nhờ vậy mà Bỉ vỏ và sau đó là Những ngày thơ ấu không bị khuất lấp sau “thác lũ” của những Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê, Làm đĩ, Kép Tư Bền...” [144, tr. 168]; “Ở hầu hết các nhân vật của ông, nhân vật chính luôn rơi vào trạng thái tự vấn mình ráo riết, tự vò xé, dằn vặt bản thân tới tận cùng” [144, tr. 175]. Do phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả luận án


chỉ tập trung giới thiệu, khảo cứu, nghiên cứu, phê bình sự vận động của dòng văn học hiện thực Việt Nam 1930 -1945, và chủ yếu ở thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn của 5 tác giả trên, nên những nhận xét chỉ mang tính khái quát.

Luận án tiến sĩ của tác giả Phạm Hồng Lan “Không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết hiện thực phê phán 1930 -1945” (2009), đã nghiên cứu không gian và thời gian nghệ thuật của tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao. Do đối tượng và phạm vi nghiên cứu, tác giả luận án cũng mới chỉ dừng lại nghiên cứu Không gian và thời gian nghệ thuật trong một cuốn tiểu thuyết Bỉ vỏ nổi tiếng của Nguyên Hồng, mà chưa bao quát được những đặc điểm về không gian, thời gian nghệ thuật trong toàn bộ sáng tác của nhà văn.

Luận văn thạc sĩ “Bước đầu tìm hiểu lý tưởng thẩm mỹ trong tiểu thuyết của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao” của Nguyễn Thị Thu Hoài đã khảo sát về lý tưởng thẩm mỹ của các nhà văn hiện thực trong đó có Nguyên Hồng qua tiểu thuyết xuất sắc Bỉ vỏ. Tác giả luận văn đã nhấn mạnh Bỉ vỏ “là bức tranh cuộc sống của lớp người dưới đáy xã hội” [60, tr. 58] và “là hiện thực khắc nghiệt của thành phố Cảng” “đầy cạm bẫy”, “lừa lọc”, “môi trường hỗn độn, vô luân lý”. Từ đó, tác giả khẳng định: “ca ngợi phẩm chất của người phụ nữ đáng thương để lên tiếng tố cáo hiện thực nghiệt ngã chính là nét riêng trong lý tưởng thẩm mĩ của Nguyên Hồng” [60, tr. 71].

Tìm hiểu về “Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945”, luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Thị Thanh Yến [171] đã nghiên cứu các kiểu nhân vật của Nguyên Hồng qua thể loại truyện ngắn trước 1945. Tác giả luận văn xác định các kiểu nhân vật của Nguyên Hồng trước Cách mạng là: nhân vật cam chịu, nhân vật vượt lên hoàn cảnh, nhân vật vị tha giàu đức hy sinh. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, tác giả cũng chỉ dừng lại ở sự khu biệt các loại nhân vật, nghệ thuật xây dựng nhân vật (tạo tình huống, miêu tả ngoại hình, hành động, ngôn ngữ…) của Nguyên Hồng ở thể loại truyện ngắn mà chưa bao quát được toàn bộ các thể loại sáng tác của nhà văn giai đoạn trước Cách mạng.

Ngoài ra, theo khảo sát của chúng tôi, trên một số báo điện tử và trên một số tạp chí khoa học cũng có những bài viết về nhà văn Nguyên Hồng, ví dụ như:


- Báo Sài Gòn online, có bài viết: “Nhà văn lớn của người nghèo” của Đoàn Minh Tuấn 04/11/2008;

- Báo Điện tử VN EXPRESS có bài viết: “Nguyên Hồng, Nhà văn mau nước mắt” (Quách Liêu), ngày 07/4/2008, nguồn Báo Tổ Quốc.

- Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh có bài: “Văn xuôi nghệ thuật của Nguyên Hồng và cội nguồn của lòng thương cảm” của Tiến sĩ Bạch Văn Hợp, số 29, năm 2011...

Nhìn chung, những bài viết trên đều thể hiện thái độ trân trọng, ngưỡng mộ tài năng và nhân cách Nguyên Hồng. Tuy nhiên, với khuôn khổ bài báo nên chưa có những bài chuyên sâu về Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng. Qua khảo sát, chúng tôi thấy đáng chú ý nhất là bài báo:“Văn xuôi nghệ thuật của Nguyên Hồng và cội nguồn của lòng thương cảm” của Tiến sĩ Bạch Văn Hợp, số 29, năm 2011. Tác giả bài báo cắt nghĩa nguồn gốc sự thương cảm của Nguyên Hồng trong sáng tác, đó là do: hoàn cảnh gia đình, môi trường sống; tư tưởng bác ái của đạo Thiên chúa; tư tưởng nhân đạo của Chủ nghĩa cộng sản và cá tính nhà văn. Tác giả đã lý giải nguồn gốc sự thương cảm của Nguyên Hồng là do bốn yếu tố như trên, mà chưa bao quát Thế giới nghệ thuật của nhà văn.

Đó là những nét khái quát nhất về tình hình nghiên cứu về Nguyên Hồng nói chung và Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng nói riêng ở Việt Nam. Ngoài ra, trong khả năng có hạn của mình, chúng tôi cũng đã cố gắng tìm hiểu việc nghiên cứu Nguyên Hồng và về Thế giới nghệ thuật của ông của các tác giả nước ngoài, như:

- Trong cuốn Lịch sử Văn học Việt Nam, Giáo sư - viện sĩ N.I. NICULIN giới thiệu Lịch sử Văn học Việt Nam nói chung và Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 -1945 nói riêng. Trong giai đoạn văn học này, tác giả nêu sơ lược đặc điểm sáng tác của các tác giả thuộc trào lưu văn học hiện thực phê phán như: Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao. Về Nguyên Hồng, nhà nghiên cứu người Nga đã giới thiệu hai sáng tác là tiểu thuyết Bỉ vỏ và truyện ngắn Một người mẹ Trung Quốc. Với Bỉ vỏ, “nhà Việt học” nhận xét: “Chủ đề về những nỗi cơ cực của người phụ nữ bất hạnh được nêu lên trên phương diện đạo đức - tâm lý (…), tác giả nhìn thấy cội nguồn của số phận bi đát của nàng là những điều kiện của cuộc sống xã hội” [103, tr. 749, 750]; với truyện ngắn Một

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 20/07/2022