Một Thế Giới Nhân Vật Phong Phú, Phức Tạp Thuộc Tầng Lớp Thị Dân Và Lao Động Dưới Đáy Xã Hội


hội - là những yếu tố, những điều kiện quan trọng đã đưa Nguyên Hồng đến với văn chương, đã tạo nên một NHÀ VĂN NGUYÊN HỒNG. Đó là nhà văn của những người khốn khổ, nhà văn của lòng nhân đạo luôn tha thiết yêu thương cuộc sống - một trong những tên tuổi lớn của trào lưu văn học hiện thực phê phán thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 nói riêng, của nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung. Hay nói một cách khác, từ hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh đã gia đình, môi trường sống, đã chi phối cảm hứng chủ đạo của Nguyên Hồng ở từng phương diện trong Thế giới nghệ thuật. Điều này, chúng tôi sẽ nói rò hơn ở các chương sau.


Chương 3

THẾ GIỚI NHÂN VẬT


3.1. Một thế giới nhân vật phong phú, phức tạp thuộc tầng lớp thị dân và lao động dưới đáy xã hội

Con người luôn luôn là đối tượng chủ yếu của văn học, vậy quan niệm nghệ thuật về con người nói chung được hiểu như thế nào? Theo GS Trần Đình Sử trong Dẫn luận thi pháp học thì: “Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lý giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy của con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật trong đó”[140, tr. 41]. “Quan niệm nghệ thuật về con người là yếu tố cơ bản, then chốt nhất của một chỉnh thể nghệ thuật, chi phối tính độc đáo của chỉnh thể ấy” [140, tr. 59]... Tuy nhiên, ở mỗi thời đại, mỗi trào lưu văn học, mỗi nhà văn lại có cách biểu hiện quan niệm về con người khác nhau - chính điều đó đã tạo nên tính chất phong phú đa dạng của từng trào lưu văn học, của từng thời đại văn học. Các nhà văn hiện đại nói chung, các nhà văn thuộc trào lưu văn học hiện thực nói riêng giai đoạn đầu thế kỷ XX, đặc biệt là ở thời kỳ 1930 - 1945 đã rất chú ý đi vào khai thác cái Tôi - cá nhân bên cạnh cái Ta mang tính cộng đồng, con người của xã hội bên cạnh con người của tự nhiên. Họ đã miêu tả con người thời kỳ hiện đại trong mối quan hệ xã hội phức tạp, trong đó con người vừa là tác nhân đối với xã hội, vừa là sản phẩm của chính xã hội sinh ra qua thế giới nhân vật phong phú, phức tạp mà mình phản ánh.

Hầu như những cây bút hiện thực đương thời đều tạo dựng được cho mình một thế giới nhân vật riêng. Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố... tập trung phản ánh, miêu tả con người trong những mối xung đột giàu - nghèo ở những vùng nông thôn lạc hậu, nơi mà những người nông dân phải hứng chịu biết bao nhiêu tai hoạ nặng nề; Vũ Trọng Phụng tập trung miêu tả những cảnh sống đầy giả dối ở thành thị, nhằm lột trần thực chất một xã hội "chó đểu" qua những tấn trò đời đang diễn ra dưới mọi dạng vẻ; Nam Cao tập trung miêu tả cuộc sống mòn mỏi, bế tắc cực độ của những người nông dân sau lũy tre làng và cuộc “sống mòn” của những người trí thức tiểu tư sản. Còn thế giới nhân vật của Nguyên Hồng là thế giới những con người nghèo khổ thuộc tầng lớp thị dân và lao động nghèo khổ, những con người khốn cùng dưới đáy trong xã hội Việt Nam thời kỳ trước cách mạng.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 185 trang tài liệu này.

Vậy, Nguyên Hồng đã có quan niệm nghệ thuật về con người như thế nào?

Điều gì đã tác động đến quan niệm của nhà văn về những con người ấy?

Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng thời kỳ trước năm 1945 - 8

Như đã phân tích ở Chương 2, hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh gia đình là một trong những yếu tố trực tiếp đã ảnh hưởng không nhỏ đến quan niệm nghệ thuật của Nguyên Hồng. Nhà văn đã sống trong không khí “cách mạng” của văn học theo xu hướng hiện đại hóa. Ở thời kỳ này, dưới ảnh hưởng của nền văn minh phương Tây các vấn đề về con người được đề cập đến với những quan niệm hết sức mới mẻ. Các tờ báo như Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm... có đăng nhiều bài viết về phụ nữ và trẻ em, thể hiện tư tưởng bênh vực quyền sống, quyền tự do, quyền hạnh phúc của người phụ nữ; quyền trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng, được sống trong tình yêu thương ở gia đình và xã hội, tiêu biểu như những bài viết của Phan Khôi, của Đạm Phương nữ sĩ... Những tư tưởng tiến bộ hiện đại này đã ảnh hưởng ít nhiều đến quan niệm và tư tưởng nhân đạo của Nguyên Hồng khi viết về phụ nữ và trẻ em trong xã hội đương thời trong các trang sách của mình.

Nguyên Hồng quan niệm: con người trước hết phải chính là con người - con người được sống và tồn tại với các quyền của con người trong cuộc đời thực. Đó là con người bằng xương bằng thịt trên còi trần, là con người cá nhân với tất cả những trạng thái cảm xúc, với đời sống tâm lý đa dạng. Con người tồn tại với các mặt đối lập tốt /xấu, cao thượng / thấp hèn, ích kỷ / vị tha, vừa nhân ái bao dung lại vừa nhỏ nhen, ti tiện... Quan niệm này được bắt nguồn từ chính cuộc sống và cuộc đời đầy cay đắng tủi cực của nhà văn - một cuộc đời gắn bó sâu sắc với những người dân nghèo dưới đáy xã hội. Từ cuộc sống cần lao của họ, Nguyên Hồng đã tạo nên một bức tranh cuộc sống hiện thực sinh động đầy màu sắc nhưng không kém phần chân thực. Nếu các nhà văn đương thời khi viết về những con người dưới đáy xã hội bằng một tấm lòng cảm thông của người ngoài cuộc, thì Nguyên Hồng lại viết về họ bằng sự yêu thương, cảm thông của người trong cuộc. Vì vậy, Nguyên Hồng đã tạo dựng cho mình một thế giới nhân vật riêng: thế giới của những người lao động nghèo khổ dưới đáy xã hội ở môi trường thành thị. Đó là những người bị bần cùng hoá và những kẻ bị tha hoá trong xã hội thực dân phong kiến đương thời.

Từ những quan điểm sáng tạo như trên đã chi phối ngòi bút Nguyên Hồng khi ông xây dựng thế giới nhân vật của mình, đó chính là thế giới của những người


nghèo khổ thuộc tầng lớp thị dân và lao động nghèo dưới đáy xã hội. Cụ thể là: những người lao động bị bần cùng hóa và tha hóa (những nhân vật phu phen tạp dịch, những người công nhân, phu khuân vác ở những bến tàu, bến xe, những người đàn bà buôn bán lặt vặt, những em bé phải làm đủ mọi nghề để sống, những gái điếm, me tây, những trí thức tiểu tư sản thất nghiệp, những nhân vật lưu manh, trộm cắp...). Qua sáng tác của nhà văn, người ta thấy số phận bất hạnh, những nỗi cơ cực khôn cùng của những con người được phơi bày một cách cụ thể, đó là: nghèo đói, gia đình tan nát, mẹ - con, cha - con, vợ - chồng ly tán, sự ngược đãi, sự đọa đầy, tù tội, chiến tranh… Suốt cuộc đời cầm bút của mình (đặc biệt là giai đoạn trước cách mạng), Nguyên Hồng đã tập trung toàn bộ sức lực, tâm huyết để viết về những cảnh đời đau khổ lầm than, để phơi bày bao nỗi oan trái bất công, để bênh vực, sẻ chia với những con người lao động nghèo khổ dưới đáy xã hội này.

Trong thế giới nhân vật của mình, Nguyên Hồng đặc biệt quan tâm đến nhân vật phụ nữ và trẻ em - đó là những nhân vật yếu đuối nhất, ít có khả năng tự vệ nhất trong xã hội - vì thế, viết về những nhân vật này nhà văn đã phản ánh được đến tận cùng những nỗi đau khổ của con người trong một xã hội đầy tội ác, bất công.

3.1.1. Những người phụ nữ nghèo khổ, bất hạnh, cùng đường, nổi loạn

Theo thống kê của chúng tôi thì trong hơn 60 sáng tác của nhà văn trước Cách mạng đã có tới 38 truyện viết về đề tài phụ nữ (chiếm tỷ lệ 62,2%). Điều đó chứng tỏ sự xuất hiện của loại nhân vật này ở Nguyên Hồng đậm đặc hơn so với những nhà văn khác. Qua khảo sát, chúng tôi thấy nhân vật phụ nữ của Nguyên Hồng được xuất hiện trong tất cả các thể loại sáng tác (truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, ký) của ông. Những nhân vật phụ nữ này có hai đặc điểm nổi bật, đó là:

những con người đau khổ, vất vả, có một cuộc sống cơ cực, bị đánh đập, chà đạp nhưng vẫn nhẫn nhục, cam chịu và rất bất hạnh vì không có hạnh phúc gia đình (kiểu nhân vật này được thể hiện ở 25/38 sáng tác)

những người phụ nữ có số phận bất hạnh, bị xã hội dồn đẩy vào chân tường, cùng đường, bế tắc trở nên phản ứng cực đoan, nổi loạn trở thành những kẻ giang hồ, lưu manh, tha hóa… (kiểu nhân vật này được thể hiện ở 9/38 sáng tác).

Với đặc điểm thứ nhất, Nguyên Hồng đã miêu tả một cách rất cụ thể, cặn kẽ, đa dạng và phong phú cuộc sống nghèo khổ dưới đáy của họ với bao nỗi bất


hạnh khôn cùng. Trước hết, họ bất hạnh vì gánh nặng của cuộc sống nghèo đói, túng quẫn, ví dụ như các nhân vật: Mũn (trong Đây bóng tối), Láng (trong Quán Nải), Vịnh (trong Hàng cơm đêm), Chị Năng (trong Sông Máu)Cuộc sống đói nghèo cùng quẫn luôn đè nặng lên đôi vai những người phụ nữ, quanh năm tảo tần, đầu tắt mặt tối không lúc nào ngẩng mặt lên được. Nguyên Hồng thấu hiểu cảnh ngộ và đau xót cho thân phận họ "người đàn bà Việt Nam cằn cỗi vì cùng khổ, vì con cái nheo nhóc, vì bị cầm xích bởi những thành kiến, phong tục lễ nghi đè nén nặng nề đã để tất cả lòng phẫn uất kêu lên trong tiếng khóc những lúc họ không có thể chịu đựng được" [73, tr. 134]. Biết rằng từ xưa đến nay, gánh nặng gia đình luôn dồn cả lên đôi vai gầy yếu của người phụ nữ, nên Nguyên Hồng bày tỏ sự cảm thông sâu sắc của mình đối với những số phận bất hạnh của họ (như những nhân vật: Vịnh, bác Nấu gái, mụ Đen, Mũn,...).

Người phụ nữ bất hạnh vì phải chịu đựng sự ngược đãi, hành hạ của chính những ông chồng bế tắc trước cuộc sống, phản ứng cực đoan bằng cờ bạc, rượu chè và quay ra đánh đập vợ, con. Thông thường trong cuộc sống, người đàn ông phải là người trụ cột gia đình, gánh vác công việc lớn, nuôi vợ con - nhưng trong sáng tác của Nguyên Hồng thì không phải là như vậy. Trong nhiều tác phẩm của nhà văn không thấy bóng dáng của những người đàn ông, nếu có thì họ cũng bị động, mờ nhạt, thậm chí họ còn là gánh nặng cho những người vợ tần tảo, nhẫn nhục, chịu đựng. Nhân vật bà mẹ (trong Vực thẳm) nuôi chồng rồi cung phụng cả người anh chồng không biết bao nhiêu năm, suốt đời bà cứ "nhất nhất vâng theo và cúi đầu chịu đựng như đối với thần thánh", làm quần quật để nuôi con, để cho chồng "quần chùng, áo dài, ăn uống thoả thuê rồi rong chơi" [74, tr. 282]. Nhân vật mụ Mão (trong Người mẹ không con) cũng có số phận khốn khổ như vậy, chồng mụ “thấy mình cứ ngoi ngóp mãi trong sự túng thiếu nợ nần rạc rài, và cả những lúc thua thấy trần trụi mà về… Mão Chột lại đổ cái đen đủi, xúi quẩy lên đầu mụ vợ, lên sự xấu xí quái gở của mụ” [73, tr. 416]. Thường xuyên mụ Mão bị chồng đánh đập một cách vô cớ, một cách tàn bạo: “đầu toạc ra, môi vều lên”, “rồi bị đánh đập thâm tím mình mẩy” [73, tr. 417]. Sự nhẫn nhục chịu đựng của những người phụ nữ ấy một phần do bản chất vốn có của họ, do thói quen hi sinh hết mình vì chồng, vì con, vì gia đình, nhưng một phần có lẽ là do ảnh hưởng của chữ “Nhẫn” trong đạo Thiên Chúa đã chi phối ngòi bút của Nguyên Hồng từ cách


lựa chọn đối tượng đến cách xây dựng loại nhân vật này chăng (kiểu nhân vật chịu nạn)? Vì thế, mà hầu hết các nhân vật phụ nữ của Nguyên Hồng thường cứ phải chịu đựng biết bao nỗi khổ đau, biết bao bất hạnh trong cuộc đời của họ.

Ngoài loại nhân vật “chịu nạn” này, ta còn gặp một kiểu nhân vật phụ nữ bất hạnh khác, đó là những người phụ nữ bị đẩy vào tình trạng bi đát, khốn cùng, kết thúc bằng cái chết bi thảm. Đó là những người phụ nữ nửa điên, nửa dại như nhân vật chị của An (trong Ngọn lửa), mới có hăm hai tuổi đầu mà còn còm còi, khắc khổ như mẹ của An, công nợ dồn dập, thiếu thốn đủ đường, làm việc cật lực mà vẫn túng quẫn, nên "chị thành một hình hài không thể gọi là một cơ thể sống để chịu những nặng nhọc dầu dãi và cằn cỗi ở cái đời sống này nếu nó cứ thế mãi, với những thiếu thốn lầm than dày dặc, mà con người không thể nào được gọi là con người và đời sống còn đáng sống nữa" [73, tr. 375]. Chính sách bóc lột khiến người dân phải chịu nhiều tầng áp bức "một cổ hai tròng" khiến người ta không chịu nổi, hoá điên, hoá dại như nhân vật chị Bồng (trong Ngòi lửa). Nguyên Hồng viết truyện này trước cách mạng tháng Tám năm 1945, tác phẩm đã ẩn chứa một sức mạnh căm thù, một sức mạnh góp phần làm nên cuộc cách mạng vĩ đại của dân tộc: đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập tự do và quyền sống cho con người.

Một số nhân vật phụ nữ của Nguyên Hồng còn bị rơi vào hoàn cảnh tù đầy thảm khốc trong nhà tù thực dân phong kiến, sống cuộc đời tù tội, bất kể là ở lứa tuổi nào, bất kể là vì lý do gì, như: nhân vật bà cụ Vỉ (trong Cát bụi lầm), nhân vật Hai mươi hai (trong Linh hồn), nhân vật những người đàn bà ở trong tù (trong Tết của những người đàn bà trong tù). Tết đến - là thời điểm sum họp gia đình, vậy mà “những người đàn bà hiền lành không biết tội ác là gì, họ đã bị đày ải hàng giờ trước gió lộng, một chiều cuối đông đầy nước mắt”… “mồng một… mồng hai, đến mồng ba, mồng bốn, đời của những người đàn bà khốn nạn ấy trong những ngày đầu xuân vẫn tối tăm, yên lặng trong nhà giam chật hẹp hôi hám” [73, tr. 131]. Trong nhà tù, họ chỉ còn biết cầu nguyện Chúa trời để quên đi những nỗi nhục hình, những trận giá rét mà mình đang phải gánh chịu một cách oan uổng.

Là người phụ nữ, niềm khao khát chính đáng nhất của họ là được làm vợ, làm mẹ đúng nghĩa, nhưng nhiều nhân vật phụ nữ của Nguyên Hồng lại không được hưởng niềm khao khát chính đáng này. Họ bất hạnh vì không có tình yêu, hạnh phúc gia đình thực sự, lấy chồng nhưng không được chồng yêu, như nhân vật


mẹ bé Hồng (trong Những ngày thơ ấu), Muống (trong Quán Nải), hoặc có con mà không được nuôi con như nhân vật mợ Du (trong Mợ Du); hoặc không thể có con, như nhân vật Hai Liên (trong Bỉ vỏ), hoặc phải chịu bao thiệt thòi vất vả để được nuôi nấng đứa con riêng của chồng, như nhân vật mụ Mão (trong Người mẹ không con). Nguyên Hồng đã khắc sâu những nỗi niềm sâu thẳm ấy, những khao khát cháy bỏng về tình mẫu tử của họ của họ để tố cáo xã hội đương thời, để mà cảm thông sâu sắc cho những thân phận bất hạnh khôn cùng đó của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Viết về loại chủ đề này, người ta thường nói đến sự gặp gỡ ở một mức độ nào đó giữa Nguyên Hồng và Thạch Lam. Thạch Lam cũng thường gợi lại cảnh nghèo khổ rất đáng thương của người phụ nữ, ví dụ như: nhân vật Tâm (trong Cô hàng xén), hay nhân vật mẹ Lê (trong Nhà mẹ Lê)... Song so với Thạch Lam, Nguyên Hồng viết nhiều hơn, đa dạng hơn, chân thực và trần trụi hơn về những cảnh đời người phụ nữ bất hạnh đó. Vì thế mà sức khái quát về đề tài này của Nguyên Hồng có lẽ cao hơn, và giá trị tố cáo xã hội cũng sâu đậm hơn.

Đặc điểm nổi bật thứ hai trong hệ thống những nhân vật phụ nữ của Nguyên Hồng là: họ bị dồn đẩy đến tận chân tường, cùng đường và bế tắc, có những phản ứng cực đoan đã trở thành những kẻ nổi loạn, bị tha hóa rồi trở thành những kẻ giang hồ, lưu manh, trộm cướp… Nguyên Hồng cũng miêu tả rất thành công kiểu nhân vật phụ nữ này - những con người bất hạnh vì nhân phẩm và thể xác đều bị chà đạp thảm khốc. Họ bị đẩy vào bước đường cùng, vào ranh giới giữa sự sống và cái chết, giữa nhân phẩm, danh dự và những ham muốn tầm thường, thậm chí là tội lỗi. Đó là những người phụ nữ sống ngoài vòng pháp luật như các nhân vật: Bảy Hựu (trong Bảy Hựu), Chín Huyền (trong Chín Huyền)…; hay những người phụ nữ cùng đường bị đẩy vào nhà chứa, sống cuộc sống cặn bã, ê chề nhục nhã như nhân vật Tám Bính, Hai Liên và một số người phụ nữ khác (trong Bỉ vỏ)... dẫu muốn trở lại thành những con người bình thường, họ cũng“không thể xóa hết được cuộc đời của một con “bỉ vỏ” mà quay lại sống cuộc sống lương thiện trong xã hội ấy được” (Chín Huyền)...

Tại sao thời kỳ đó ở Hải Phòng lại xuất hiện nhiều loại người tha hóa, lưu manh, trộm cướp đến thế? Có lẽ nguyên nhân là: “Hải Phòng, một hải cảng sầm uất bậc nhất của Đông Dương, một thành phố công nghệ mở mang, với hơn ba mươi nghìn dân lao động bần cùng ở các tỉnh dồn về, cũng có một đặc điểm là sản xuất được một số “anh chị”, gian ác liều lĩnh không biết là bao nhiêu” [74, tr. 335].


Tỷ lệ những người phụ nữ làm nghề bán dâm chiếm một tỷ lệ khá lớn trong xã hội - điều mà trước đây xã hội Việt Nam không hề có. Nhà văn Vũ Trọng Phụng qua phóng sự Lục xì của mình, đã đưa ra một con số so sánh, phản ánh thực trạng gái mại dâm ở Hà Nội: “dân Hà Thành có 18 vạn người, có năm nghìn gái mại dâm chính thức, bình quân “cứ 35 người tử tế thì lại có một người làm đĩ”, nếu so với tỉ lệ ở Pari, một thành phố ăn chơi nổi tiếng, thì tỷ lệ gái mại dâm ở Hà Nội cao hơn mười lần” [135, tr. 165]. Nhà báo Phan Khôi cũng lý giải nguyên nhân của hiện tượng này trong xã hội với tư tưởng bênh vực người phụ nữ “Thuở trước người con gái nào đi làm đĩ, người ta cho rằng đồ cẩu trệ, đồ thối thây, có ai thèm kể đến làm chi, huống nữa là đem ra làm thành vấn đề. Nhưng ngày nay thì không thể, bởi sự sống khó khăn quá mà hạng kỹ nữ ngày càng nhiều thêm ra, ta phải nhìn nhận đó là tội lỗi chung của xã hội” [84, tr. 6 - 8]. Thực tế cuộc sống của họ thật là đen tối, thê thảm. Họ bán sức lực, bán nhan sắc, tuổi trẻ và tấm thân của mình và sống ở những khu nhà chứa nhầy nhụa trong một không gian hôi hám, tối tăm, ngộp thở. Hậu quả là nhiều người trong số họ kiệt sức, ho ra máu rồi chết. Tuy nhiên trong sâu thẳm tâm hồn của họ, đâu đó vẫn ánh lên những thoáng khát vọng muốn từ bỏ cuộc sống tăm tối, tội lỗi của mình để trở về cuộc sống bình yên, lương thiện. Đáng quý nhất ở họ là lòng hy sinh, dám xả thân vì nghĩa cử. Ví dụ như: nhân vật Tám Bính đã từ bỏ cuộc sống yên ổn với người chồng mật thám để cứu Năm Sài Gòn, cũng có nghĩa là phải trở về với cuộc đời “bỉ vỏ” mà cô vô cùng ghê sợ, lúc nào cũng muốn dứt bỏ. Chỉ vì một lý do: Năm là người đàn ông duy nhất đã thương yêu cô một cách chân thành, đã chở che cho cô sau bao ngày phải sống trong một nhà chứa mạt hạng. Hay nhân vật Bảy Hựu (trong Bảy Hựu) cũng vậy! Tuy còn ít tuổi nhưng để cứu Hai Răng vàng - người anh mà Bảy Hựu theo từ nhỏ, cô sẵn sàng xả thân mình để giải thoát cho Hai khi bị đối thủ tấn công; Nhân vật Chín Huyền (trong Chín Huyền) mặc dù phải sống trong sự quản thúc, lần hồi nuôi hai đứa con nhỏ, chồng đi tù rồi chết, bản thân lại đang đau yếu, nhưng thấy Sáu Lẹm cằm bị bắt, với tinh thần nghĩa cử của một con nhà vò sống giang hồ, Chín Huyền đã không ngần ngại ra tay cứu Sáu, cho dù biết mình sẽ lại ngồi tù thay! Tính cách can trường, trọng nghĩa khí của họ có gì phảng phất tính cách của những nhân vật anh hùng ở Lương Sơn Bạc trong Thủy Hử (Thi Nại Am) vậy, lại vừa có cái gì giống như những nhân vật trong các cuốn tiểu thuyết của M.Goorki khi viết về loại người lưu manh sống ngoài vòng pháp luật, sống dưới đáy xã hội.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 20/07/2022