Khi nói đến Phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng, nhiều tác giả đều cho rằng Nguyên Hồng có phong cách nghệ thuật riêng. Nguyễn Đăng Mạnh là một trong những nhà nghiên cứu chuyên sâu về Nguyên Hồng, trong các công trình nghiên cứu của mình, tác giả cũng đặc biệt chú ý đến tư tưởng và phong cách nghệ thuật của nhà văn. Ngay từ những năm 70 của thế kỷ XX, trong cuốn Giáo trình Lịch sử Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định: "Nguyên Hồng là nhà văn có phong cách rò rệt quy định bởi những đặc điểm về hoàn cảnh gia đình, môi trường sống, về tư tưởng, tình cảm, về sự tiếp thu ảnh hưởng xã hội và văn học" [100, tr. 20]; Đồng thời tác giả cũng chỉ ra một vài nét tiêu biểu của phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám là "tình cảm say sưa bồng bột", và "tinh thần nhân đạo chủ nghĩa thiết tha", "... một nội dung trữ tình sôi nổi, một cảm hứng lãng mạn mãnh liệt...”. Ở một công trình nghiên cứu khác, ông cũng đã bàn về phong cách lãng mạn của Nguyên Hồng: “Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng có một cái gì rất gần gũi với thần thoại, cổ tích, truyện Tàu, lại giông giống như thế giới đầy dông bão của những trường ca, những thiên truyện ngắn lãng mạn chủ nghĩa của Mácxim Goorki hay tiểu thuyết của Víchto Huygô, trong đó có sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa bão táp và nắng vàng, giữa quỷ dữ và thiên thần…” [116, tr. 100] và “Nguyên Hồng có thiên hướng xây dựng những tích cách phi thường, những hình tượng kỳ dị, những tâm trạng được phóng đại, những tình huống dữ dội, những quang cảnh rộng lớn, náo động đầy dông bão (…) phù hợp với một giọng văn thống thiết của một tâm hồn nồng nhiệt muốn giãi bày trực tiếp trên những trang sách...” [116, tr. 100,101]...
Phan Cự Đệ là một trong những nhà nghiên cứu dành nhiều tâm huyết nghiên cứu về Nguyên Hồng, ông đã tiếp cận sáng tác của nhà văn từ nhiều góc độ khác nhau như: cảm hứng sáng tạo, chủ nghĩa nhân đạo, màu sắc trữ tình... Về phong cách nghệ thuật, tác giả khẳng định: "Cùng đứng trong chủ nghĩa hiện thực phê phán nhưng Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng... mỗi người có một phong cách riêng. Phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng cũng mang những màu sắc thẩm mỹ độc đáo” [116, tr. 112]. Nhà nghiên cứu cũng chỉ ra yếu tố trữ tình lãng mạn như một đặc điểm phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng: "Không phải lúc nào Nguyên Hồng cũng viết bằng một bút pháp hiện thực tỉnh táo và nói chung, ít khi anh sử dụng một lối viết nặng nề về trí tuệ. Ở anh, những yếu tố nội tâm, những tình cảm sôi nổi, dạt dào từ bên
trong đôi lúc cứ muốn lấn lướt, trùm lên cái hiện thực khách quan được miêu tả" [116, tr. 121]. Khi giới thiệu quá trình sáng tác từ Bỉ vỏ đến Cửa biển, Phan Cự Đệ cũng đã lý giải sự chuyển biến về tư tưởng và nghệ thuật của Nguyên Hồng từ sau Cách mạng tháng Tám gắn liền với quá trình nhận thức về cách mạng, đi theo cách mạng của nhà văn. Tác giả khẳng định sự nhất quán trong phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng, "Phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng giờ đây giàu có, phong phú hơn trước nhưng nhìn chung vẫn là một phong cách hiện thực giàu chất lãng mạn cách mạng và chất trữ tình say đắm" [116, tr. 142].
Tác giả Bạch Văn Hợp khi đi sâu vào nghiên cứu Đặc điểm phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng đã chỉ ra phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng là: nhà văn của “lòng thương cảm thống thiết những kiếp người cùng khổ” [77, tr. 200], một “ngòi bút hiện thực giàu chất lãng mạn” [77, tr. 66] và một “bút pháp sôi nổi, nồng nhiệt” [77, tr. 123];… có những nhân vật khác thường như: “nhân vật giàu nghĩa khí mang dáng dấp anh hùng hảo hán” [77, tr. 110], “nhân vật mang dáng dấp cổ tích huyền thoại” [77, tr. 114], “nhân vật thánh thiện” [77, tr. 116], “nhân vật quỷ sứ” [77, tr. 119]; mặt mạnh của Nguyên Hồng là “cách sử dụng thành ngữ độc đáo” [77, tr. 125], “ngôn ngữ gây ấn tượng” [77, tr. 134], “ngôn ngữ giàu cảm xúc” [77, tr. ]; một “giọng điệu sôi nổi thiết tha và cấu trúc chồng tầng của lời văn nghệ thuật” [77, tr.159]; một “thủ pháp trần thuật giàu xúc cảm” [77, tr. 173] trong sáng tác của nhà văn.
Như vậy, ý kiến của các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng là phong cách hiện thực, giàu chất lãng mạn và chất trữ tình, là nhà văn của chủ nghĩa nhân đạo, của lòng thương cảm thống thiết đối với những người cùng khổ trong xã hội cũ.
Ngoài ra còn một số ý kiến, nhận xét khác về sự nghiệp và quá trình sáng tác của Nguyên Hồng, về Thế giới nghệ thuật của nhà văn thời kỳ trước năm 1945, nhưng thực sự chưa có một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về Thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Đặc biệt, sau khi nhà văn qua đời đã có một số công trình nghiên cứu tổng hợp về Nguyên Hồng, một số bài viết của các tác giả là các nhà thơ, nhà văn cùng thời với Nguyên Hồng như Kim Lân, Nguyễn Tuân, Huy Cận,... và các nhà
Có thể bạn quan tâm!
- Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng thời kỳ trước năm 1945 - 1
- Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng thời kỳ trước năm 1945 - 2
- Về Ngôn Ngữ, Giọng Điệu Nghệ Thuật
- Giới Thuyết Chung Về Thế Giới Nghệ Thuật
- Những Cơ Sở Hình Thành Thế Giới Nghệ Thuật Của Nguyên Hồng
Xem toàn bộ 185 trang tài liệu này.
nghiên cứu, phê bình, các nhà thơ thuộc các thế hệ sau như: Hà Minh Đức, Tế Hanh, Bùi Hiển, Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Quang Thân, Ngô Văn Phú,... Nội dung những bài viết này là những hồi ức, kỷ niệm liên quan đến nhà văn của các tác giả, bày tỏ lòng yêu quý, trân trọng, ngợi ca tài năng, phẩm chất nghệ sĩ và những bài học đầy ý nghĩa được rút ra từ cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn hiện thực xuất sắc Nguyên Hồng.
Gần đây nhất, tháng 11/2013, Hội Văn học nghệ thuật Hải Phòng đã tổ chức Hội thảo “Nhà văn Nguyên Hồng - cuộc đời và sự nghiệp văn chương” (Nhân Kỷ niệm 95 năm ngày sinh của nhà văn Nguyên Hồng, tại Hải Phòng). Trong khuôn khổ của một Hội thảo, các ý kiến của GS. TS. Trần Đăng Suyền, PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện, TS. Lê Thị Bích Hồng, TS. Nguyễn Đức Thuận... nhà thơ Hữu Thỉnh, nhà văn Đình Kính, nhà văn Đỗ Nhật Minh, nhà văn Cao Năm, Lưu Văn Khuê, nhà sử học Lê Văn Lợi, nghệ sĩ nhiếp ảnh Hoàng Minh Đáng… đều thể hiện sự ngưỡng mộ, trân trọng tài năng và nhân cách Nguyên Hồng. Các ý kiến đều đánh giá cao sự đóng góp của Nguyên Hồng đối với sự phát triển của nền văn chương Việt Nam hiện đại. Nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam đã ghi nhận những đóng góp của Nguyên Hồng, đó là: “Nguyên Hồng là một tác gia lớn, một tác giả sử thi tầm cỡ nhất của văn chương Việt Nam hiện đại, một nhà văn thực sự xuất sắc của thế kỷ XX” [119]. GS. TS. Trần Đăng Suyền đã khẳng định: “Nguyên Hồng là nhà văn của chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc, thống thiết; sáng tác của ông làm phong phú thêm chủ nghĩa nhân đạo của nền văn học dân tộc” [119]. Với một cái nhìn tổng quan về Nguyên Hồng từ “một cái nhìn thế kỷ” - PGS.TS. Đoàn Trọng Huy
[119] đã có những đánh giá rất trân trọng và xác đáng về nhà văn: “Nguyên Hồng đã sống với những sự kiện lớn lao của đất nước… với tư cách chứng nhân lịch sử, cũng là người tham gia làm nên lịch sử, Nguyên Hồng đã sống và viết hết mình. Những trang viết của nhà văn có sự mặn mòi của mồ hôi lao động, có cái nồng ấm của nước mắt pha lẫn vẻ rạng rỡ của nụ cười. Tất cả những gì trên mặt giấy đều được giãi bày tươi thắm bằng máu huyết tâm hồn” (Nguyên Hồng từ cái nhìn thế kỷ)...
Tóm lại: Khi nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyên Hồng, các nhà nghiên cứu phê bình đều đánh giá cao tài năng và nhân cách của ông, khẳng định Nguyên Hồng là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của trào
lưu văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945. Với những đóng góp của mình, Nguyên Hồng đã có vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam thế kỷ XX.
1.2. Tình hình nghiên cứu về Thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng
Như chúng tôi đã trình bày ở trên, đã có những công trình nghiên cứu, những bài viết về Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng ở những phương diện như: đề tài, chủ đề, nhân vật, thời gian, không gian nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ thuật,... trong sáng tác của nhà văn trước cách mạng. Tuy nhiên, theo khảo sát, chúng tôi nhận thấy, những nhà nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở những nhận định chung nhất, hoặc đi sâu vào một số phương diện như: nhân vật, ngôn ngữ nghệ thuật... mà chưa có một công trình nghiên cứu toàn diện, hệ thống về Thế giới nghệ thuật của nhà văn.
Xuất phát từ quan niệm: Thế giới nghệ thuật “là chỉnh thể của hình thức văn học”, “là sản phẩm sáng tạo mang tính cảm tính, có thể cảm thấy được của người nghệ sĩ, một kiểu tồn tại đặc thù, vừa trong chất liệu, vừa trong cảm nhận của người thưởng thức, là sự thống nhất của mọi yếu tố đa dạng trong tác phẩm” [140, tr. 30], chúng ta hiểu rằng: Thế giới nghệ thuật chính là sự thống nhất của mọi yếu tố: Đề tài, chủ đề, nhân vật, thời gian và không gian, ngôn từ nghệ thuật... tất cả tạo nên một Thế giới nghệ thuật mang nét riêng, mang cá tính sáng tạo của nhà văn.
Từ cơ sở lý thuyết, lý luận như trên, tác giả luận án đã tìm hiểu lịch sử nghiên cứu về Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng ở các phương diện sau:
1.2.1. Về đề tài sáng tác
Trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm (xuất bản lần đầu1941, tái bản năm 1993), NXB Tổng hợp Đồng Tháp, có nội dung nghiên cứu về “Các khuynh hướng phổ thông của tư tưởng trong quốc văn hiện đại”, đã chia ra 3 khuynh hướng: Khuynh hướng về học thuật, khuynh hướng lãng mạn, khuynh hướng tả thực. Tác giả đã xếp sáng tác của Nguyên Hồng vào khuynh hướng tả thực cùng với Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang [51, tr. 466]. Cũng cùng quan điểm này, Thế Phong khẳng định: “Nguyên Hồng là nhà văn xã hội hơn hết theo đúng danh từ. Xã hội tính trong văn chương Nguyên Hồng là tả chân thực
sự” [123, tr. 77]. Giáo sư tiến sĩ khoa học N.I. Nikulin khi nghiên cứu Lịch sử văn học Việt Nam, cho rằng “cuộc sống của tầng lớp dân nghèo thành thị cũng được phản ánh trong những tác phẩm hiện thực”, và tác giả dẫn ra ví dụ tiêu biểu là “tiểu thuyết Bỉ vỏ của Nguyên Hồng” [103, tr. 749].
Nhiều nhà nghiên cứu về Nguyên Hồng sau này như Nguyễn Đăng Mạnh, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức… cũng đều thống nhất cho rằng đề tài sáng tác mà Nguyên Hồng hướng đến là cuộc sống của những người lao động nghèo khổ dưới đáy xã hội thực dân phong kiến. “Từ thế giới những người lao động cực khổ nhất trong xã hội. Nguyên Hồng đã đến với nghề văn” [116, tr. 78]; “Mỗi nhà văn đều có một nguồn suối tinh thần yêu thương của họ, Ngô Tất Tố tiếp thu được cái hơi thở khỏe mạnh, hồn hậu, lạc quan của nông dân, còn Nguyên Hồng thì bắt rễ sâu vào cuộc sống và những tình cảm tốt đẹp của những người dân nghèo, thợ thuyền thành phố. Anh luôn luôn nói đến người lao động nghèo khổ với lòng biết ơn tình nghĩa, với sự gắn bó trọn đời chung thủy” [116, tr. 106]…
Có thể thấy rằng: các ý kiến, nhận xét, đánh giá của các nhà nghiên cứu, phê bình (trước và sau cách mạng) đều đã chỉ rò: Đề tài sáng tác trong tác phẩm của Nguyên Hồng là cuộc sống của những con người khốn khổ trong xã hội đương thời, nhà văn đã rất thành công khi viết về đề tài này - và điều này là hoàn toàn chính xác. Chính vì vậy, trong luận án của mình, chúng tôi sẽ không đi sâu vào nghiên cứu phương diện này mà sẽ tập trung vào một số phương diện khác trong Thế giới nghệ thuật của nhà văn hiện thực Nguyên Hồng.
1.2.2. Về chủ đề sáng tác
Trong nhận xét của Giải thưởng Tự lực văn đoàn, năm 1937 (báo Ngày nay, năm 1938), Thạch Lam đánh giá sự thành công cũng như hạn chế trong tiểu thuyết Bỉ vỏ như sau: “Cái đặc biệt của Nguyên Hồng có lẽ là cái màu sắc tự nhiên và sự linh động. Người ta mừng rằng với một đầu đề như thế (đời một cô gái trụy lạc) ông Nguyên Hồng đã khéo đứng trong phạm vi sự thật và sự cảm thấy, mà không sa ngã vào những câu sáo và hoa mỹ,… còn nhiều chỗ vụng về… nhiều câu văn chưa gãy gọn. Nhưng đó là lỗi của một người viết văn và sẽ mất đi với kinh nghiệm và sự từng trải trong nghề”. Trong khuôn khổ của một Nhận xét Giải thưởng Thạch Lam cũng mới chỉ nêu ý kiến nhận xét về sự tự nhiên và linh động cũng như một số hạn chế trong văn Nguyên Hồng mà thôi.
Phan Cự Đệ khẳng định rằng: “Vấn đề chính trong tác phẩm của Nguyên Hồng trước Cách mạng là: những con người quằn quại trong sự đau khổ nhưng vẫn lạc quan, yêu đời, vẫn muốn “ngoi lên ánh sáng như những mầm cây xanh” [116, tr. 111]. Tác giả đã nhấn mạnh đến bản chất nhân vật của Nguyên Hồng, đó là: những người dân nghèo tuy bị xã hội đẩy đến sự bần cùng hóa (thậm chí lưu manh hóa), nhưng ở họ luôn là niềm khao khát cuộc sống lương thiện trong một xã hội công bằng, đẹp đẽ hơn.
Còn nhà phê bình Vũ Ngọc Phan thấy ở truyện ngắn của Nguyên Hồng "phần nhiều pha một giọng phóng sự chua cay và kín đáo, phần nhiều dùng việc thay lời, nên cái nghệ thuật của ông thật là sâu sắc” [116, tr. 44], “Ông đã đi từ cuộc sống nghèo nàn của mấy hạng người bị xã hội khinh bỉ đến những cuộc sống bên trong rất phức tạp và không kém phần ồn ào, nhộn nhịp” [116, tr. 48], “chỉ khi nào lòng yêu nhân loại lên tới cực điểm, là người ta mới thiết tha đến những người bị xã hội ruồng bỏ” [116, tr. 43]. Vũ Ngọc Phan cũng đã nói đến cảm hứng sáng tạo và giá trị nhân đạo toát ra trong sáng tác của Nguyên Hồng, đây là một ý kiến rất đáng chú ý khi cắt nghĩa ngọn nguồn cảm hứng sáng tạo của nhà văn.
Khái quát về toàn bộ đời văn Nguyên Hồng, Nguyễn Minh Châu thấy “Ngổn ngang gò đống kéo lên biết bao nhiêu là hạng người, là mẫu người của xã hội cũ”... “bao giờ ông cũng đặt niềm tin tưởng vững chắc vào cái cốt lòi tốt đẹp của tính cách những con người lao động nghèo khổ” [116, tr. 379]. Đồng thời, tác giả cũng cho rằng: Nguyên Hồng là “Nhà văn của thập loại chúng sinh”.., “từ trong lòng cái xã hội “thập loại chúng sinh” bước ra, cầm cây bút sắt chấm vào mồ hôi, nước mắt và máu của mình mà viết ra văn chương riêng của mình” [116, tr. 378]. Chúng ta thấy rằng: Nguyễn Minh Châu cũng như các nhà nghiên cứu, phê bình trên đã nhấn mạnh đến đối tượng thẩm mỹ trong sáng tác của Nguyên Hồng là những con người nghèo khổ trong xã hội cũ, đồng thời tác giả cũng khẳng định niềm tin tưởng vững chắc của Nguyên Hồng vào bản chất tốt đẹp của người lao động - đó chính là chủ đề nổi bật, bao trùm trong toàn bộ sáng tác của nhà văn hiện thực này.
1.2.3. Về nhân vật
Ngay từ trước Cách mạng, Trương Chính tuy có những nhận xét khắt khe về cuốn tiểu thuyết Bỉ vỏ như: còn thiếu nghệ thuật, thiếu kinh nghiệm, nhưng ông cũng đưa ra nhận định khách quan về cách xây dựng nhân vật của Nguyên Hồng:
"Tác giả dồn hết nạn này đến nạn khác trên đầu Bính cho đến khi cô bị bắt, ở tù, mới chịu thôi”, đó là nhận xét về một trong những đặc điểm xây dựng nhân vật ở Nguyên Hồng trong một cuốn tiểu thuyết cụ thể.
Tác giả Hà Minh Đức khi đánh giá tổng quát về Nguyên Hồng và quá trình sáng tác của nhà văn - đã nhận định: “Nguyên Hồng, nhà văn của những khát vọng sống”… “nhà văn của những xóm thợ”, “người đã đem vào trang sách muối mặn, mồ hôi và đất bụi của cuộc đời” [116, tr. 13]. Đồng thời, tác giả nhấn mạnh đến đặc điểm nhân vật của Nguyên Hồng “thế giới nhân vật của Nguyên Hồng bị vây bọc trong sự nghèo khổ không có lối ra (…) nhưng bao giờ cũng nuôi khát vọng sống chân chính của con người… Cũng dễ nhận ra người dân lao động trong tác phẩm của Nguyên Hồng ở cuộc đời nghèo khổ, lòng nhân ái và những khát vọng sống của họ” [116, tr. 17]… Ở đây, nhà nghiên cứu đã khẳng định lòng nhân ái, sự lạc quan và sức sống bất diệt ở các nhân vật của Nguyên Hồng. Đồng thời tác giả cũng chỉ ra nhược điểm trong cách xây dựng nhân vật của Nguyên Hồng là: “còn thiếu những nhân vật phản diện để tạo nên những đối trọng của các nhân vật thuộc tầng lớp giàu nghèo khác nhau” [116, tr. 18]. Nói về những hạn chế của Nguyên Hồng khi xây dựng nhân vật, Vũ Đức Phúc, Nguyễn Đức Đàn cho rằng: “Nếu như tư tưởng của Nguyên Hồng tương đối ngày càng tiến bộ, thì về nghệ thuật ông lại hay mắc phải nhược điểm là lý luận dài dòng và trực tiếp nói lên nhiều ý nghĩa của mình thay cho việc mô tả sự việc và tính cách con người. Nhân vật của ông thường triết lý về cảnh khổ của mình và của người khác hơn là hành động… trong sáng tác của ông nhiều trang có tính chất bài báo hoặc bút ký trữ tình, ông không chú trọng xây dựng điển hình cho thật sinh động” [125, tr.149 ]. Ý kiến về hạn chế của Nguyên Hồng khi xây dựng nhân vật như trên không thấy có người hưởng ứng.
Tác giả Phan Cự Đệ cho rằng nhân vật của Nguyên Hồng “là những con người quằn quại trong sự đau khổ nhưng vẫn lạc quan, yêu đời, vẫn ngoi lên ánh sáng như những mầm cây xanh” [116, tr. 111]. Tác giả cũng nhận xét những đức tính quý báu của nhân vật trong sáng tác của Nguyên Hồng như: “tình thương yêu, đùm bọc lẫn nhau giữa những người cùng khổ”, “tình nghĩa chung thủy và lòng hi sinh cho hạnh phúc người khác”, “lòng tự trọng dù đói khổ vẫn không chấp nhận lối sống trụy lạc, bán rẻ nhân phẩm để chạy theo đồng tiền và danh vọng”. Đồng thời Phan Cự Đệ cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế trong cách xây dựng nhân
vật của Nguyên Hồng như: “dù sao, nhiều nhân vật dân nghèo của Nguyên Hồng vẫn còn giữ một thái độ cam phận, nhẫn nhục, chịu đựng trước cảnh ngộ. Đôi lúc ta có cảm tưởng dường như ngòi bút nhà văn chìm sâu một cách triền miên trong sự khổ đau, say sưa trong một thứ chủ nghĩa cùng khổ”… “Nhược điểm này từ năm 1938 trở đi, dần dần được khắc phục” [116, tr. 111]. Như vậy, tác giả đã ghi nhận sự thành công cũng như hạn chế về cách xây dựng nhân vật của Nguyên Hồng.
Khi nghiên cứu tổng quát “Nguyên Hồng - con người và sự nghiệp” [116], tác giả Nguyễn Đăng Mạnh cũng đã khái quát quá trình sáng tác trước và sau Cách mạng của Nguyên Hồng, đã chỉ ra những đặc điểm quan trọng trong sáng tác của nhà văn. Đó là chủ nghĩa nhân đạo, là cảm hứng sáng tạo, là ba loại nhân vật quen thuộc của nhà văn: “những người làm các nghề phu phen, tạp dịch nặng nề” [tr. 82], “những người đàn bà dân nghèo thường kiếm ăn bằng việc buôn thúng bán mẹt, hay bán hàng cơm, hàng nước”[tr. 83]; “những trẻ em nhà nghèo” [tr. 86]; Ngoài ra còn có“loại nhân vật trẻ tuổi thuộc tầng lớp tiểu tư sản nghèo” [tr. 86] và “những hạng người lưu manh côn đồ” [tr. 80]. Tuy nhiên, với một công trình nghiên cứu tổng quan về “Nguyên Hồng, con người và sự nghiệp”, Nguyễn Đăng Mạnh cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu chung về các loại nhân vật của Nguyên Hồng, mà chưa chỉ ra đặc điểm cụ thể của từng loại nhân vật cũng như chưa đi sâu vào nghiên cứu nghệ thuật xây dựng từng loại nhân vật ấy.
Nhận xét về tính cách nhân vật của Nguyên Hồng, có ý kiến nhận định rằng “Trong thế giới nhân vật của ông, ta thường bắt gặp những tính cách phi thường, những con người thánh thiện nhuốm vẻ tôn giáo và màu sắc lãng mạn. Đó là những con người khác thường với những nét tính cách được tô đậm, phóng đại, được đẩy lên đến mức cực đoan. Tất cả đều mang một nét chung nào đó khiến người đọc nhận ra đây chính là những nhân vật, những đứa con tinh thần của Nguyên Hồng” [131, tr. 420]. Theo chúng tôi, đây chính là một nhận xét chính xác và tinh tế bởi tác giả đã chỉ ra sự khác biệt về nhân vật của Nguyên Hồng so với nhân vật của các nhà văn khác cùng thời với ông, kể cả nhà văn hiện thực phê phán.
Về nghệ thuật sáng tạo của Nguyên Hồng, PGS.TS. Đoàn Trọng Huy cũng khẳng định “Nguyên Hồng có nhiều hứng khởi để sáng tạo, đổi mới trên lĩnh vực văn xuôi. Nghệ thuật ngôn từ phát triển do đi sâu vào đời sống nhiều mặt phong phú và hết sức sinh động”. Từ góc nhìn của một nhà đạo diễn sân khấu, nghệ sĩ ưu