Khảo sát những sáng tác của Nguyên Hồng thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, chúng tôi nhận thấy rằng: nhà văn hiện thực này đã rất chú ý đến việc tạo dựng những hoàn cảnh, những tình huống độc đáo để khắc họa tính cách và tâm lý nhân vật. Hoàn cảnh nổi bật, bao trùm, có tính chất điển hình trong toàn bộ tác phẩm của Nguyên Hồng trước cách mạng là: Hoàn cảnh sống tăm tối, đói khổ, cùng quẫn kéo dài đã góp phần tạo nên kiểu nhân vật chịu đựng, nhẫn nại. Và cũng chính hoàn cảnh sống đen tối, khốn khó, bế tắc đã góp phần tạo nên kiểu nhân vật tha hóa, lưu manh, trộm cướp.
Cuộc sống và số phận của người dân nghèo thành thị được Nguyên Hồng miêu tả chân thực và chi tiết, đồng thời ông cũng đã chỉ rò nguyên nhân của sự cơ cực, nghèo đói đó chính là: hậu quả của chính sách bóc lột đến tận xương, tận tủy người dân của bọn thực dân phong kiến. Nhà văn khẳng định: chính chúng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự bần cùng hóa, lưu manh hóa đối với những người nông dân nghèo khi họ ra thành phố, để “Thử xem ngoài những nơi chôn rau cắt rốn của họ, đời họ có thay đổi chút nào không” (Ngọn lửa)... Nhưng cuộc sống đô thị phồn hoa một cách giả tạo và đầy cạm bẫy ấy lại tiếp tục đẩy họ vào tình trạng bi đát, bất hạnh hơn. Hoàn cảnh, môi trường sống tăm tối, đói khổ, cùng quẫn kéo dài như vậy đã tạo ra loại nhân vật cam chịu, nhẫn nhục không còn sức để phản kháng nữa. Họ là những người phụ nữ bị“cằn cỗi vì cùng khổ, vì con cái nheo nhóc, vì bị cầm xích bởi những thành kiến, phong tục lễ nghi đè nén nặng nề đã để tất cả lòng phẫn uất kêu lên trong tiếng khóc, những lúc họ không còn thể chịu đựng, chứ không biết tìm cách tự giải phóng, thoát khỏi những sự áp chế bằng năng lực dồi dào sẵn có của mình” [73, tr. 278], như nhân vật người mẹ trẻ của bé Hồng (Những ngày thơ ấu) - đại diện cho bao người phụ nữ khác - khi mới “mười bảy, mười tám tuổi đã trở thành một người con gái cằn cỗi, lúc nào cũng khép nép, lo sợ, rồi thì về nhà chồng với một lòng nhẫn nhục ngày càng dạn dày, một đức tính thuyết phục ngày càng mạnh mẽ” [73, tr. 746]; hay Nhân vật mụ Mão (Người mẹ không con) thường xuyên phải chịu đựng những trận đòn thừa sống thiếu chết của ông chồng vũ phu nát rượu, điên khùng. Sự vũ phu, ngược đãi của chồng ngày càng làm cho mụ Mão trở nên sợ hãi, nhẫn nhục hơn. Mụ tự an ủi: “mụ thấy rằng mụ cứ phải ăn ở như thế còn mặc giời với hắn. Số phận mụ bắt mụ phải thế, mụ còn phải vâng theo cho đến chết. Không thế, ai bảo mụ đi lấy chồng...” [37, tr. 417). Nhân vật mụ Mão
là đại diện của những người phụ nữ bị hành hạ quá nhiều trở lên cam chịu, nhẫn nhục, không thể và không dám phản kháng để thay đổi số phận của mình.
Bên cạnh đó, hoàn cảnh sống đói khát, tăm tối, bế tắc, đầy giả dối, đầy tội lỗi ở cả nông thôn và thành thị đã nảy sinh ra loại nhân vật nổi loạn (nhân vật lưu manh, trộm cắp,...) nhằm phản ứng một cách tiêu cực xã hội đen tối, bất công, vô nhân đạo đương thời.
Đầu tiên phải kể đến các nhân vật là phu phen, thợ thuyền… cùng quẫn quá đâm ra phản ứng cực đoan: rượu chè, cờ bạc, đánh chửi vợ con, ngày càng chìm sâu vào sự bê tha bế tắc, thậm chí là tội lỗi như các nhân vật trong các truyện: Bố con lão Đen, Sau hai mươi năm, Người mẹ không con... Sau đó là những loại nhân vật cùng khổ “buôn bán đầu đường cuối chợ, kéo xe, khuân vác, cúp tóc, đốt lửa, thợ sắt, giang hồ” [73, tr. 229]. Có biết bao người lao động chăm chỉ, cần mẫn ở nhà quê đã phải trôi dạt ra thành phố kiếm sống, bị vắt kiệt sức lao động mà tồn tại nhưng rốt cục càng chăm chỉ chịu khó, họ càng bị bọn thống trị lợi dụng, bòn rút đến tận xương tủy. Chỉ nói riêng đến môi trường thành phố Hải Phòng với những địa danh như Cầu Ca Rông, Vườn hoa đưa người, Ngò Cấm, Sáu Kho, Hạ Lý, chợ Con... là những khu công nghiệp Cảng, nơi tập trung đủ mọi hạng người, muốn tồn tại được thì phải lừa lọc, chém giết lẫn nhau để mưu sinh. Vì thế, nó “đẻ ra” những hạng người lưu manh, trộm cắp, đĩ điếm, giang hồ. Họ đều là dân “tứ xứ” gặp nhau, đều là những cảnh “cùng đường mạt lộ” bỏ quê hương gia đình đi kiếm sống, muốn tồn tại được phải liều lĩnh, phải tranh giành quyết liệt, thậm chí phải triệt hạ lẫn nhau. Tiêu biểu cho loại nhân vật này phải kể đến các nhân vật như: Năm Sài Gòn, Tư lập lơ, Chín hiếc, Chín Huyền, Bảy Hựu... những tay trùm có oai quyền mà “các cánh chạy vỏ phải nép mình dưới một oai quyền cho ai sống được sống, cho ai chết được chết, bảo ngồi tù phải ngồi tù” [74, tr. 383]. Trong một xã hội mà con người “lấy quê hương và gia đình làm đề lao, anh em thân thích là tụi đồng nghệ quỷ quyệt” [74, tr. 393] ấy đã tạo nên những tính cách tàn nhẫn, thậm chí độc ác, thủ đoạn, vô cảm, dửng dưng trước những tội ác của đồng loại. Một xã hội đầy sự tranh giành lừa lọc, trộm cướp, chém giết… ấy đã không còn có chỗ sống cho những con người lương thiện, nên muốn sống được thì… một là phải nhịn nhục, hai là phải lừa lọc, chém giết, trộm cướp lẫn nhau… mà thôi! Có những cô gái quê vì những hủ tục, những luật lệ khe khắt, lạc hậu của chế độ phong kiến đã phải bỏ
làng mà ra thành phố, để rồi bị lừa bịp, bị cưỡng hiếp, bị đẩy vào nhà chứa… trở thành gái điếm, trở thành những bỉ vỏ (nhân vật Tám Bính trong Bỉ vỏ); hay rơi vào ổ của bọn cờ bạc và buôn lậu (nhân vật Muống trong Quán Nải), hoặc trở thành lưu manh, trộm cướp (nhân vật Bảy Hựu trong Bảy Hựu)…
Ngoài hoàn cảnh, môi trường sống ấy tạo nên những tính cách (như kể trên) của nhân vật, thì bản chất xấu xa của chế độ thực dân phong kiến vô nhân đạo ấy cũng đã tác động sâu sắc đến từng số phận con người. Môi trường sống và bản chất xã hội đó đã khiến cho rất nhiều người muốn quay trở lại cuộc sống lương thiện cũng không thể nào quay lại được. Bởi xã hội có những “ông quan công minh đến nỗi nhiều kẻ, nhà không có mà ở, bát không có mà ăn, vợ lìa chồng, bố bỏ con, nhưng chẳng hề dám hé răng kêu nửa lời, vì kêu vào đâu? Ai nghe cho?”, thế là con đường trở thành người lương thiện của họ chỉ còn là ảo tưởng! Bọn cảnh sát thì luôn cấu kết với bọn buôn thịt bán người ở nhà nhà chứa. Bọn chủ tây, chủ ta trong các nhà máy, hầm mỏ thì bòn rút, bóc lột, thậm chí cưỡng bức tàn nhẫn phụ nữ - kể cả phụ nữ có thai đến mức trụy thai hoặc biến họ thành những cái xác không hồn. Đó là ở thành phố, còn ở thôn quê thì bọn cường hào, ác bá sau lũy tre xanh lừa lọc, lợi dụng hủ tục o ép, bóc lột dân nghèo. Chỉ một cô gái quê chửa hoang mà cả làng được ăn vạ, bọn cường hào ác bá lợi dụng để phạt vạ, kiếm chác. Để lo được cái vạ ấy, người ta chỉ còn cách bán cả nhà cửa, ruộng vườn mà đi tha phương cầu thực, phải bỏ làng đi vất vưởng nơi đầu đường xó chợ, hoặc bán mình trong các nhà chứa mạt hạng nơi thành phố. Tất cả môi trường hỗn độn vô nhân đạo ấy đã hùa vào nhau để ức hiếp những con người lao động nhỏ bé, khốn khổ, đẩy họ vào những thảm cảnh khác nhau. Hiện thực cuộc sống ấy tất yếu tạo ra những con người nổi loạn, không làm chủ được lý trí, tình cảm và hành vi của mình - họ trở thành những kẻ lưu manh, trộm cắp, gái điếm... Xây dựng những kiểu nhân vật có tính cách như vậy, một mặt Nguyên Hồng đã phản ánh sinh động và sâu sắc hiện thực đen tối trong xã hội đương thời, mặt khác ông cũng cố gắng lý giải ngọn nguồn nguyên nhân đã tạo nên những loại người có tính cách ấy. Vì thế, nhân vật “nổi loạn” của nhà văn dù là ở dạng nào cũng đều là đáng thương hơn đáng giận - bởi họ là sản phẩm của một xã hội, một môi trường đen tối, bế tắc, không lối thoát - Đó cũng chính là ý nghĩa nhân đạo cao cả được toát ra từ những sáng tác của Nguyên Hồng.
Có thể bạn quan tâm!
- Những Đứa Trẻ Nghèo Dưới Đáy Xã Hội, “Không Có Tuổi Thơ”
- Những Người Trí Thức Tiểu Tư Sản Nghèo, Giàu Hoài Bão Nhưng Bất Lực Và Bế Tắc Trước Cuộc Sống
- Một Số Thủ Pháp Nghệ Thuật Tiêu Biểu Xây Dựng Nhân Vật
- Nghệ Thuật Miêu Tả Tâm Lý Nhân Vật Qua Độc Thoại Nội Tâm
- Thời Gian Gắn Liền Với Những Sự Kiện Và Biến Cố Dữ Dội Của Cuộc Đời Nhân Vật
- Không Gian Xã Hội Đen Tối, Nhức Nhối, Chứa Đựng Đầy Bất Công Và Tội Lỗi
Xem toàn bộ 185 trang tài liệu này.
Để thể hiện được một tính cách nhân vật một cách sống động cũng như để khẳng định môi trường, hoàn cảnh sống đã tạo nên tính cách con người, Nguyên Hồng đã luôn đặt nhân vật vào tình huống đặc biệt và cực độ. (Cực độ là “mức cao nhất của một trạng thái” [149, tr. 305], như: Khốn khổ cực độ, bất hạnh cực độ, và những thử thách cực độ để bộc lộ những tính cách (có khi là tính cách cao thượng, hay tính cách mềm yếu nhu nhược, hoặc tính cách mạnh mẽ ngỗ ngược, tính cách lưu manh),… còn đặc biệt chính là sự “khác hẳn với những trường hợp thông thường về tính chất, chức năng hoặc mức độ” [149, tr. 383]). Việc tạo nên những tình huống cực độ và những hoàn cảnh đặc biệt như vậy, Nguyên Hồng đã thể hiện tính cách nhân vật của mình một cách chân thực và sinh động nhất.
Khảo sát một số sáng tác của Nguyên Hồng như: Bỉ vỏ, Mợ Du, Linh hồn, Bố con lão Đen, Nhà sư nữ chùa Âm Hồn, Đây, bóng tối, Người con gái, Vực thẳm, Giọt máu, Miếng bánh, Trong cảnh khốn cùng, Con chó vàng... chúng tôi thấy, nhà văn đã tạo ra nhiều tình huống nghệ thuật nhằm thể hiện sức chịu đựng kỳ lạ của nhân vật cũng như để khẳng định bản chất tốt đẹp của họ. Ví dụ như, khi xây dựng hình tượng nhân vật Tám Bính (Bỉ vỏ), tác giả đã đặt nhân vật này vào trong những tình huống hết sức đặc biệt để miêu tả quá trình từ một cô gái quê trong sáng, lương thiện, bị xô đẩy vào con đường tha hóa và trượt dài đến lưu manh hóa. Quá trình ấy là cả một chuỗi những sự kiện, tình huống đầy bất hạnh của nhân vật: Khi là cô gái quê ngây thơ, trong sáng tin vào tình yêu, tin vào cuộc đời thì Tám Bính bị lừa dối, bị phụ bạc; khi là người mẹ với những khát khao đau đáu được làm mẹ thì Bính bị chia lìa tình mẫu tử; khi là người vợ với ước muốn có một gia đình ấm cúng, bình yên thì luôn phải sống trong sự sợ hãi và luôn tự giày vò mình vì tội lỗi. Là người lúc nào cũng khao khát cuộc sống lương thiện thì kết cục Bính không thể nào quay lại cuộc sống bình thường như bao người khác bởi tội ác mà cô đã gây ra... Tám Bính chính là hiện thân của số phận vừa đau đớn, đắng cay, vừa tủi nhục, bất hạnh. Nhân vật Tám Bính thực sự đã trở thành điển hình cho loại nhân vật “chịu nạn” của Nguyên Hồng. Trong truyện ngắn Linh hồn, Nguyên Hồng cũng đã đặt nhân vật vào hoàn cảnh đầy kịch tính. Nhân vật Hai mươi hai đã phải đi tù thay chồng tám tháng trong lúc bụng mang dạ chửa vì nhà đoan khám thấy có rượu lậu trong nhà. Nhưng đi tù nào đã được yên, Hai mươi hai phải đi làm cỏ vê, rồi bị cai ngục “tò mò lật áo, lật yếm, lật khăn” làm cho cô cảm thấy bị xúc phạm mà đành chịu. Chưa hết, Nguyên Hồng lại đặt nhân vật
vào tình huống cực độ hơn nữa, Hai mươi hai bị cai ngục hãm hiếp đến sảy thai rồi chết! Tình huống này làm người đọc càng tăng thêm sự xót thương vô hạn với thân phận người phụ nữ và sự căm hận đối với những kẻ đểu giả, độc ác, táng tận lương tâm. Đặt nhân vật vào tình huống đầy thử thách và đau khổ cực độ ấy, nhà văn nhằm khẳng định tâm hồn trong sáng của Hai mươi hai, tuy thân xác bị làm nhục nhưng vẫn thủy chung với người chồng nghèo khổ ở quê nhà. Qua đó, nhà văn đã khắc sâu hơn nữa bản chất tàn ác, dã man mất hết tính người của lũ “mặt người dạ thú” - những kẻ bóc lột thống trị đương thời.
Nguyên Hồng luôn có ý thức đặt nhân vật của mình vào những tình huống thử thách cực độ, cố xoáy sâu vào những tình huống bi thảm với những nỗi khổ bất hạnh chồng chất lên nhau. Nếu tình huống truyện của Thạch Lam được diễn ra trong khoảng khắc nào đó (như khi Gió lạnh đầu mùa về, hay Tối ba mươi đến…) thì tình huống truyện của Nguyên Hồng mỗi lúc càng thêm căng thẳng, bức bối ngột ngạt, các nhân vật phải hứng chịu những nỗi khổ tưởng như không thể khổ hơn. Những kiểu nhân vật này của Nguyên Hồng mang một nét gì đó như kiểu nhân vật “chịu nạn”, mang màu sắc của Thiên chúa giáo. Nhân vật Bính (Bỉ vỏ), Hai mươi hai (Linh hồn), những người đàn bà trong tù (Tết của tù đàn bà),... trong những lúc đau khổ tột cùng đều hướng về Chúa với một niềm an ủi về sự nhẫn nhịn, sự chịu đựng của mình. Và cũng đúng như một số nhà nghiên cứu đã khẳng định: Nguyên Hồng có thói quen đã trút lên đầu nhân vật của mình đủ mọi nỗi khổ nhục, nỗi éo le để nói cho hết cho thỏa nỗi khốn khổ của nhân vật, và cũng là để cho thỏa cái tình thương mênh mông của mình đối với những con người khốn khổ ấy.
Mặt khác, khi tạo những tình huống cực độ và đặc biệt như vậy, Nguyên Hồng đã thể hiện được bản chất tốt đẹp của con người lao động. Ta thấy nhà văn luôn tin vào bản chất tốt đẹp (giầu đức hy sinh, cao thượng, đầy tình nhân ái…) của họ, phát hiện ở họ tiềm tàng một bản năng mãnh liệt để hướng tới thiện căn bền vững. Vẻ đẹp tâm hồn nhân vật được thể hiện ngay trong những hoàn cảnh nghiệt ngã và bi kịch nhất. Chẳng hạn khi Bính sa chân vào nhà chứa, khi là một bỉ vỏ nhưng vẫn luôn luôn khát khao cuộc sống lương thiện; Mợ Du gặp lại đứa con trong sự khao khát cháy bỏng mà xót xa của tình mẫu tử; Mụ Mão thường xuyên bị chồng đánh bầm dập, thâm tím cả mình mẩy nhưng vẫn hầu hạ chồng cơm ngày
hai bữa, vẫn chui ra rúc vào với những đứa con riêng của chồng… thì vẻ đẹp thiêng liêng của tình mẫu tử lại ngời sáng làm cảm động lòng người.
Khảo sát các tác phẩm của Nguyên Hồng, chúng tôi thấy nhà văn đã tỏ ra rất có ý thức xây dựng hoàn cảnh, môi trường sống để khắc họa tính cách nhân vật. Đó là khi nhà văn đã đặt nhân vật vào những tình huống căng thẳng, ngặt nghèo, quyết liệt; hoặc khi phải đối mặt với những điều kiện sống khắc nghiệt, phi nhân tính, đẩy con người vào bước đường cùng, buộc phải có những sự lựa chọn dứt khoát. Đó là những lúc họ phải đụng độ với những xung đột một mất một còn với người đối lập (Bảy Hựu, Buổi chiều xám…), hay lúc có những xung đột về danh dự, nhân phẩm và thực tế nghiệt ngã, phũ phàng (Con chó vàng, Miếng bánh…). Đó là sự lựa chọn của người trí thức tiểu tư sản trước nhu cầu thông thường của con người, đó là nhu cầu về miếng ăn trước cái đói đang hành hạ và tình thương đối với vợ của một người chồng, và cao hơn là danh dự, lòng tự trọng của người trí thức. Đó là sự lựa chọn của mợ Du (Mợ Du), khi gặp lại đứa con trong hoàn cảnh lén lút, đầy kịch tính: sau bao ngày xa cách, cảm xúc dồn nén đẩy căng, ứ tràn thành tiếng khóc vỡ òa. Cảm xúc vừa hạnh phúc khi gặp lại con, vừa đau đớn, tủi phận cho hoàn cảnh oái oăm của mình và cả sự linh cảm về nỗi biệt ly tình mẫu tử… tất cả hòa vào trong tiếng khóc nức nở của hai mẹ con mợ Du trên nền của một không gian đầy sự tương phản. Không gian thì đẹp đẽ thơ mộng đầy ánh trăng, ngát hương hoa cau, hoa lý và tâm trạng con người thì lại đầy ai oán, xót thương.
Chúng ta đều biết, giữa tác phẩm văn học với loại hình sân khấu, điện ảnh có mối quan hệ lẫn nhau, tất nhiên mối quan hệ đó chỉ có thể xảy ra khi có những tác phẩm văn xuôi chứa đựng nhiều kịch tính. Nhiều tác phẩm của Nguyên Hồng đã mang đậm tính kịch của nghệ thuật sân khấu, bởi nhà văn đã tạo ra những tình huống căng thẳng và sống động, buộc nhân vật phải thể hiện đời sống nội tâm của mình hay những giằng xé, thao thức, những đớn đau trong ý thức của nhân vật. Là một trong những tác phẩm văn học xuất sắc nói về sự tha hóa của những con người ở dưới đáy xã hội, ngay từ cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, Bỉ vỏ đã được các nhà đạo diễn điện ảnh, sân khấu nổi tiếng quan tâm và dàn dựng thành kịch bản sân khấu, điện ảnh. Nhà đạo diễn điện ảnh, Nghệ sĩ nhân dân (NSND) Doãn Hoàng Giang đã nhận thấy tính kịch rất rò trong tiểu thuyết Bỉ vỏ của Nguyên Hồng. Đã hai lần nhà đạo diễn tài hoa này đã đưa nội dung Bỉ vỏ lên
sân khấu. Vở cải lương, cũng như kịch nói do ông đạo diễn đã đạt được những thành tựu đáng trân trọng, được giới phê bình sân khấu và khán giả đánh giá cao ("Bỉ vỏ" Đoàn Cải lương Quảng Ninh, đoạt Huy chương vàng, năm 1990, năm 2002, được dàn dựng thành vở kịch nói “Bỉ vỏ - cô gái ăn cắp” công diễn trên sân khấu kịch Hồng Vân, thành phố Hồ Chí Minh). NSND Doãn Hoàng Giang cho rằng: “Ở Bỉ vỏ, số phận của tất cả các nhân vật đều hay, thông qua họ, tính phê phán xã hội đạt được hiệu quả rất cao… thân phận dân đen thời ấy bị bủa vây tứ phía, muốn sống một cuộc đời lương thiện như mong muốn thật không phải dễ (…) Bỉ vỏ là chính kịch chứa đầy sự bi thương khốc liệt” (NSND Doãn Hoàng Giang đưa "Bỉ vỏ" lên sàn kịch - Báo VN EXPRESS, ngày 18/5/2002”). Đấy là sự giằng xé và đau đớn của những con người bị xã hội tha hóa và sự khát khao cháy bỏng được làm người lương thiện.
Nói tóm lại, để có thể có được những nhân vật chân thực, sống động với những tính cách phong phú, phức tạp, điển hình cho thế giới của những con người lao động nghèo khổ dưới đáy xã hội, nhà văn Nguyên Hồng đã luôn ý thức tạo dựng một hoàn cảnh, một môi trường sống với những tình huống đặc biệt. Hay nói một cách khác, ông đã rất thành công trong nghệ thuật tạo dựng hoàn cảnh, tình huống. Cụ thể ở đây là hoàn cảnh sống cơ cực lầm than của những người lao động nghèo trước cách mạng. Hoàn cảnh ấy đã nảy sinh ra những kiểu nhân vật đặc biệt mang dấu ấn Nguyên Hồng. Các nhân vật của nhà văn luôn được đặt vào tình huống cực độ, khó khăn chồng chất khó khăn, bất hạnh chồng chất bất hạnh với những thử thách nghiệt ngã. Qua những tình huống ấy, nhân vật của Nguyên Hồng đã bộc lộ sức chịu đựng phi thường. Sức chịu đựng ấy bắt nguồn từ những con người có tâm hồn và trái tim nhân hậu, luôn mang trong mình một đức tin về sự thánh thiện của con người. Vẻ đẹp tinh thần của họ là sự hòa hợp giữa tình yêu thương, sự hy sinh tới mức quên mình của những con người cùng khổ. Đó chính là sự kết hợp của truyền thống nhân nghĩa thủy chung của dân tộc với tinh thần bác ái của Chúa Jesu. Viết về họ, một mặt Nguyên Hồng đã phản ánh được một cách chân thực cuộc sống cơ cực lầm than của lớp người lao động nghèo khổ dưới đáy trong xã hội đương thời, mặt khác nhà văn cũng ca ngợi bản chất tốt đẹp của người lao động: càng trong hoàn cảnh ngặt nghèo, càng gặp những thử thách éo le thì tâm hồn họ càng ngời sáng. Viết về họ với ngòi bút chan chứa yêu thương và một sự
đồng cảm sâu sắc Nguyên Hồng đã tạo nên một nét riêng trong phong cách nghệ thuật của mình, đó là bút pháp hiện thực nghiêm ngặt nhưng lại thấm đượm ý vị trữ tình - và đây cũng là một trong những nguyên nhân đưa Nguyên Hồng đến với đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực.
3.2.2. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình để khắc họa tâm trạng và tính cách nhân vật
Như đã biết, “nhân vật văn học chỉ xuất hiện qua sự trần thuật miêu tả bằng những phương tiện văn học” [94, tr. 291] mà các phương thức, phương tiện thể hiện nhân vật lại hết sức đa dạng. Một trong những phương thức đó là “nhân vật được miêu tả bằng chi tiết… dùng chi tiết để miêu tả chân dung, ngoại hình, tả hành động, tâm trạng thể hiện quá trình nội tâm” [94, tr. 291]. Khi miêu tả ngoại hình, Nguyên Hồng chú ý miêu tả những nét, cử chỉ và hành động để biểu lộ thế giới nội tâm của nhân vật, nhất là nhân vật người phụ nữ bất hạnh. Ví dụ như, khi miêu tả nhân vật mợ Du (Mợ Du), Nguyên Hồng viết: “gương mặt trắng mát, gò má hơi cao, mắt có quầng thâm ... tiếng nói nhẹ và ấm”, biểu hiện một con người sống có nội tâm. Vì “bị mẹ chồng và em chồng bắt được quả tang tình tự với anh thợ may trẻ có duyên, làm cho nhà mợ”, nên mợ không được ở gần và không được thăm nom con khiến lòng người mẹ ấy day dứt và đau đớn vô cùng. Để miêu tả những cung bậc cảm xúc của mợ sau bao ngày xa cách, nỗi nhớ thương con bị kìm nén, đến khi chuẩn bị được gặp lại đứa con của mình, nhà văn đặc biệt chú ý miêu tả cặp mắt của mợ Du: “bỗng long lanh như hai viên ngọc” cùng với những những hành động dồn dập thể hiện sự vội vàng, cuống quýt, mợ: “lao sầm ra, ôm chặt lấy thằng Dũng vừa nức nở kêu tên Dũng... hôn rít vào má, vào trán, vào cằm Dũng rồi khóc nức nở: - Giời ơi! giời ơi! mợ chết mất! Dũng ơi! Dũng ơi!”. Hành động ấy thể hiện niềm vui, niềm hạnh phúc vô bờ khi gặp được con, và cũng thể hiện sự tủi cực, cay đắng của thân phận người phụ nữ lấy chồng, có con mà không được ở cùng con: “Thoáng cái, ánh mắt mợ Du quắc lên sáng ngời và gương mặt trắng mát của mợ tái hẳn đi” [73, tr. 376], ánh mắt mợ Du bộc lộ tâm trạng quằn quại đau đớn của người phụ nữ bất hạnh khi cảm nhận thấm thía nỗi đau của sự chia lìa tình mẫu tử.
Giọt máu là một thiên truyện cảm động viết về bé Thạo. Cuộc sống tối tăm, nặng nề, vất vả đè nặng lên Thạo, khiến lúc nào em cũng có dáng vẻ len lét, lo sợ