phát triển kinh tế xã hội); bài báo cáo tham luận với tiêu đề: “Một số vấn đề lý luận về thị trường Bất động sản” - Hội thảo khoa học “Nghiên cứu thị trường Bất động sản ở Việt Nam”, năm 2001 của PGS.TS Vũ Văn Phúc (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh); bài báo: “Một số suy nghĩ về giá cả ruộng đất và việc đền bù giải phóng mặt bằng trong quy hoạch xây dựng” - tạp chí Kinh tế và Phát triển, số tháng 9 năm 2001 của GS.TS Phạm Quang Phan (ĐH Kinh tế Quốc dân);
Về nội dung hàng hoá QSDĐ trong thị trường bất động sản (BĐS) ở Việt Nam hiện nay và vấn đề QLNN về đất đai trong thị trường BĐS, cũng đã được nhiều nhà khoa học, nhiều tổ chức quan tâm nghiên cứu và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Viện Nghiên cứu Địa chính thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức hai cuộc hội thảo lớn ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2006 với tiêu đề: “Địa chính với thị trường bất động sản, lý luận và thực tiễn ở Việt Nam”. Đã có nhiều ý kiến tham gia với Nhà nước nhằm bình ổn giá đất và phát triển thị trường BĐS ở nước ta, như: các nghiên cứu của TS. Phạm Sỹ Liêm (Hội xây dựng Việt Nam); GS. TSKH Lê Đình Thắng (ĐH Kinh tế Quốc dân); PGS.TS Nguyễn Đình Kháng (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh)... trong đó có đề tài nghiên cứu cấp Bộ do TS. Trần Kim Chung là chủ nhiệm với tiêu đề: “Môi trường đầu tư bất động sản ở Việt Nam - Cơ sở lý luận, thực trạng và giải pháp” – năm 2006, đề cập khá toàn diện.
Vấn đề QLNN về đô thị trong đó có quản lý đất đô thị cũng được nghiên cứu khá bài bản như: cuốn sách “Chính sách thu hút đầu tư vào thị trường bất động sản Việt Nam”, năm 2006, tác giả Lê Xuân Bá và Trần Kim Chung thuộc Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương; Giáo trình “Quản lý đô thị”, năm 2003 của Đại học Kinh tế Quốc dân do GS.TS Nguyễn Đình Hương chủ biên, Giáo trình “Kinh tế đô thị”, năm 2002 của Đại học Kinh tế Quốc dân do GS.TS Nguyễn Đình Hương chủ biên… Trong phạm vi hẹp hơn, các nghiên cứu về quản lý sử dụng đất đô thị, mà chủ yếu là đề cập đến giá quyền sử dụng đất đô thị, có đề tài nghiên cứu cấp Bộ do Bùi Ngọc Tuân là chủ nhiệm với tên là: “Nghiên cứu một số nguyên nhân cơ bản làm
biến động giá đất đô thị trên thị trường và đề xuất phương pháp xác định giá đất đô thị phù hợp với nước ta”, năm 2005; hoặc đề tài: “Giải pháp phát triển thị trường bất động sản ở Hà Nội”, năm 2005 do GS.TSKH Lê Đình Thắng chủ trì. UBND Thành phố Hà Nội cũng đã tổ chức một số cuộc hội thảo nhằm tranh thủ ý kiến của các chuyên gia và các nhà khoa học, để có biện pháp, cơ chế trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện chính sách quản lý đất đai của Nhà nước trên địa bàn như: Hội thảo khoa học: “Thị trường nhà đất ở Hà Nội - thực trạng và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước” - năm 2002; Hội thảo khoa học lần thứ hai: “Kinh tế hàng hoá của Thăng Long Hà Nội - thực trạng và đặc trưng...” - năm 2005...
Các nghiên cứu về QLNN đối với đất đai giai đoạn hiện nay, phần lớn tập trung đề cập đến cơ chế chính sách về đất đai, trong điều kiện nền KTTT ở nước ta đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế khu vực (AFTA) và nền kinh tế thế giới (WTO). Đặc biệt các nghiên cứu trong giai đoạn Việt Nam đàm phán gia nhập WTO, đều đặt vấn đề khai thác nguồn lực trong nước như thế nào để tạo ra đối trọng cho nền kinh tế khi mở rộng hội nhập, trong đó nguồn lực đất đai được đánh giá có vị trí vô cùng quan trọng. Một trơng những đề tài nghiên cứu tương đối toàn diện là đề tài nghiên cứu cấp nhà nước của Nguyễn Đình Bồng thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường với tên đề tài là “Nghiên cứu đổi mới hệ thống quản lý đất đai để hình thành và phát triển thị trường bất động sản ở Việt Nam”, năm 2005. Tuy nhiên cho đến nay chưa có đề tài hoặc công trình nghiên cứu nào công bố trùng với đề tài luận án mà nghiên cứu sinh đã chọn.
Hà Nội là Thủ đô, là đô thị đặc biệt và là một trung tâm lớn của tam giác tăng trưởng phía Bắc. Cùng với thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội là trung tâm kinh tế lớn của cả nước. QLNN về đất đai ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn đ« thị hoá mạnh mẽ hiện nay nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài luận án thực sự xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở khái quát một số vấn đề về lý luận và thực tiễn, luận án phân tích, đánh giá thực trạng quản lý của Nhà nước đối
Có thể bạn quan tâm!
- Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước đối với đất đai trong quá trình đô thị hóa ở thành phố Hà Nội - 1
- Đặc Trưng Cơ Bản Của Đất Đô Thị
- Sự Cần Thiết Phải Tăng Cường Vai Trò Quản Lý Của Nhà Nước Đối Với
- Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước đối với đất đai trong quá trình đô thị hóa ở thành phố Hà Nội - 5
Xem toàn bộ 215 trang tài liệu này.
với đất đai trong quá trình ĐTH ở một đơn vị hành chính cụ thể là thành phố Hà Nội, trong giới hạn về thời gian từ khi có Luật đất đai năm 1987 đến nay. Để từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản, nhằm tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước về đất đai trong quá trình ĐTH ở nước ta nói chung, trong đó có thành phố Hà Nội.
b. Nhiệm vụ của luận án:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về quan hệ sử dụng đất; vấn đề đô thị hoá, về vai trò quản lý của Nhà nước đối với đất đai, với tính chất là nguồn lực quan trọng trong quá trình ĐTH ở thành phố Hà Nội; bài học từ thực tiễn ở một số quốc gia và một số tỉnh thành trong nước, rút ra cho Việt Nam và cho thành phố Hà Nội nói riêng.
- Thu thập đầy đủ, có hệ thống các thông tin, tư liệu về quản lý nhà nước đối với đất đai ở thành phố Hà Nội từ năm 1987 đến nay, phân tích thực trạng vai trò quản lý của Nhà nước đối với đất đai trong quá trình ĐTH ở thành phố Hà Nội, đánh giá mặt được, mặt hạn chế và những vấn đề đặt ra hiện nay.
- Đề xuất định hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với đất đai trong quá trình ĐTH ở thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu vai trò quản lý của Nhà nước đối với đất đai trong quá trình ĐTH, trong điều kiện nền KTTT và hội nhập kinh tế thế giới ở một đơn vị hành chính cụ thể là thành phố Hà Nội.
- Về không gian: nghiên cứu vấn đề quản lý của Nhà nước đối với đất đai ở thành phố Hà Nội.
- Về thời gian: nghiên cứu từ khi có Luật đất đai năm 1987 đến nay.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin làm cơ sở phương pháp luận của phương pháp nghiên cứu kinh tế; luận án dựa vào các qui luật kinh tế và quan điểm, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước làm cơ sở phân tích, đánh giá và đề xuất giải pháp.
Để giải quyết những nội dung nhiệm vụ đặt ra, luận án còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu kinh tế phổ biến sau:
- Phương pháp trừu tượng hoá khoa học và phương pháp phân tích hệ thống: việc nghiên cứu vai trò quản lý đất đai của Nhà nước ở thành phố Hà Nội trong quá trình ĐTH được thực hiện một cách đồng bộ, gắn với từng giai đoạn, từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước và của Thành phố.
- Phương pháp thống kê, thu thập thông tin định lượng: luận án đã sử dụng các số liệu tài liệu thống kê thích hợp để phục vụ cho việc phân tích, đánh giá toàn diện nội dung nhiệm vụ và kết quả của hoạt động quản lý của Nhà nước về đất đai trong từng giai đoạn cụ thể ở thành phố Hà Nội.
- Phương pháp quy nạp và diễn dịch: trên cơ sở phân tích những nội dung cơ bản về quản lý đất đai của Nhà nước và thực tế quản lý SDĐ trên địa bàn thành phố Hà Nội, luận án sử dụng phương pháp quy nạp để đưa ra những đánh giá chung mang tính khái quát về thực trạng quản lý và SDĐ ở thành phố Hà Nội. Thực trạng này được đặt trong bối cảnh chung của cả nước và dưới tác động của cơ chế KTTT.
- Phương pháp chuyên khảo, đối chiếu so sánh: Luận án tiến hành nghiên cứu một vấn đề chuyên sâu trong lĩnh vực quản lý đất đai. Đồng thời nội dung quản lý của Nhà nước đối với đất đai ở thành phố Hà Nội, được xem xét đánh giá trên cơ sở so sánh đối chiếu với công tác quản lý đất đai của một số nước trên thế giới và một số tỉnh, thành phố trong nước, nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam và cho thành phố Hà Nội.
Ngoài việc thu thập những tài liệu đã công bố, với tư cách là cán bộ trực tiếp tham gia công tác QLNN về đất đai ở thành phố Hà Nội, tác giả luận án đã tự điều tra, thu thập một số tài liệu phục vụ cho nội dung luận án.
6. Những điểm mới của luận án
Luận án đã kế thừa, tiếp thu nhiều tài liệu nghiên cứu liên quan đến đề tài, trên cơ sở đó có bổ sung, phát triển phù hợp với yêu cầu của đối tượng nghiên cứu. Luận án có một số điểm mới như sau:
- Khái quát hoá một số vấn đề lý luận về đô thị, đặc điểm của đất đô thị, quá trình đô thị hoá và mối quan hệ giữa đất đai với quá trình ĐTH;
- Làm rõ sự cần thiết khách quan cần tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với đất đai nói chung, trong đó đặc biệt là đất đai đô thị và đất
®ai đang trong quá trình đô thị hoá. Khẳng định lợi ích kinh tế của Nhà nước trong quản lý và SDĐ trong quá trình ĐTH, vừa với chức năng đại diện sở hữu toàn dân về đất đai, vừa với chức năng của Nhà nước thống nhất quản lý đất đai trong phạm vi cả nước;
- Làm rõ khái niệm quản lý nhà nước đối với đất đai và nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về đất đai hiện nay, trong điều kiện sở hữu đất đai toàn dân ở nước ta;
- Phân tích kinh nghiệm của một số nước và một số tỉnh thành trong nước về hoạt động quản lý đất đai,từ đó rút ra bài học cho Việt nam và cho thành phố Hà nội về QLNN đối với đất đai trong quá trình đô thị hóa;
- Từ cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước về đất đai ở một đơn vị hành chính cụ thể là thành phố Hà Nội, tổng kết, đánh giá thực tiễn ,rút ra được những vấn đề cấp bách cần được xem xét giải quyết - đó là làm thế nào để hoạt động quản lý nhà nước về đất đai ở thành phố Hà Nội trong quá trình đô thị hoá đạt được hiệu quả cao;
- Đề xuất một số định hướng và giải pháp cụ thể nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc trong quản lý nhà nước về đất đai ở nước ta và cụ thể ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, giải trình những chữ viết tắt, mục lục, danh mục các biểu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm có 3 chương, 8 tiết:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò quản lý của Nhà nước đối với đất đai trong quá trình đô thị hoá.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với đất đai trong quá trình đô thị hoá ở thành phố Hà Nội từ khi có Luật đất đai năm 1987 đến nay.
Chương 3: Định hướng và giải pháp cơ bản tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với đất đai ở thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI ĐẤT ĐAI
TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia. Để quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai, mỗi quốc gia trên thế giới đều có những quy định cụ thể về nội dung QLNN đối với đất đai. Tuỳ hoàn cảnh lịch sử cụ thể và xu hướng chính trị của mỗi nước mà nội dung về vai trò QLNN đối với đất đai có sự khác nhau. Chương 1 của luận án đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò quản lý của Nhà nước đối với đất đai trong điều kiện thực tiễn ĐTH gắn với phát triển nền KTTT ở nước ta.
1.1. Đất đô thị và sự cần thiết tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với đất đai
1.1.1. Đô thị và đất đô thị
1.1.1.1. Quan niệm về đô thị, đô thị hoá và đất đai đô thị
* Quan niệm về đô thị
Quá trình phát triển của sự phân công lao động xã hội gắn liền với việc hình thành các hình thức cư trú mới của con người. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định: lịch sử xã hội loài người đã và đang trải qua 5 phương thức sản xuất, phương thức sản xuất sau bao giờ cũng tiến bộ hơn phương thức sản xuất trước nó, tương ứng với mỗi phương thức sản xuất việc hình thành các hình thức cư trú càng về sau càng tiến bộ và đa dạng hơn các hình thức cư trú trước đó. Hình thức cư trú ban đầu của các bộ lạc người cổ đại là ở trong các hang, hốc, nhà lều, lán tạm bợ, tiến đến hình thức cư trú tập trung thành các khu dân cư mang tính cộng đồng kiểu làng, bản, thôn, ấp của xã hội phong kiến. Đến giai đoạn TBCN, trên cơ sở phát triển của LLSX xã hội, các cuộc cách mạng trong công nghiệp và các thành tựu to lớn của khoa học kỹ thuật, đô thị được hình thành và phát triển với tốc độ ngày càng nhanh. Vì vậy có quan niệm cho rằng: đô thị là nơi tập trung dân cư, lao động đông đúc, có mật độ dân cư cư trú cao và tính không thuần nhất về xã hội mà
chủ yếu là lao động phi nông nghiệp. Những người này sống và làm việc theo một phong cách lối sống thành thị - đó là lối sống đặc trưng bởi mét sè đặc điểm như: lao động chủ yếu trong các ngành phi nông nghiệp, nhu cầu về đời sống tinh thần cao, có điều kiện để tiếp thu nhanh chóng nền văn minh tiên tiến của nhân loại, là nơi được đầu tư cao về hệ thống cơ sở HTKT và dịch vụ công cộng, nhằm đảm bảo cho điều kiện sống và làm việc của cư dân ®ược thuận lợi. Cũng có quan niệm cho rằng: đô thị là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi hàng hoá (buôn bán) giữa những người tách ly khỏi lao động sản xuất (hoặc là bộ phận dân cư làm nghề lưu thông trao đổi hàng hoá giữa người sản xuất và người tiêu dùng). Tuy nhiên quan niệm này chưa khái quát đầy đủ được cơ sở hình thành và các yếu tố tồn tại phát triển của đô thị.
Qua mỗi giai đoạn phát triển, đô thị dần trở thành nơi cư trú tập trung của những cộng đồng dân cư lớn và rất lớn, vì thế yêu cầu kiểm soát, quản lý các hoạt động và các quan hệ phát triển đòi hỏi rất cao cả về các vấn đề kinh tế, chính trị, hành chính, xã hội. Ở thời kỳ tiền công nghiệp phần lớn đất đô thị được sử dụng để xây dựng các công sở và làm nơi cư trú, dân số đô thị gia tăng, mà lực lượng bổ sung chính vẫn là dân cư nông nghiệp bị mất ruộng đất đổ ra các đô thị làm thuê. Đến cuối thể kỷ 18, nhờ có các tiến bộ vượt bậc trong phát triển LLSX, trong việc nâng cao sản lượng hàng hoá, các đô thị trên thế giới phát triển vô cùng mạnh mẽ. Các đô thị đã thực sự trở thành trung tâm hành chính, kinh tế, chính trị, văn hoá của một vùng hay một khu vực và có mật độ dân cư dày đặc. Một số quốc gia do có giai đoạn bị biến thành thuộc địa của thực dân phương Tây, chịu ảnh hưởng bởi chính sách hạn chế phát triển thuộc địa của quốc gia xâm lược (các quốc gia xâm lược thường có xu hướng cản trë đô thị hoá ở thuộc địa), vì thế tiến trình phát triển
®ô thị ở các quốc gia này rất chậm chạp (trong đó có Việt Nam).
Trong thời kỳ hậu CNH, đã xuất hiện một xu hướng mới trong qui hoạch chiến lược phát triển đô thị: ở các nước phát triển, Nhà nước tạo ra mọi điều kiện cho dân chúng xây dựng nhà ở và làm ăn tại những vùng đất mới, đã hình thành các đô thị nhỏ và vừa, cách không xa đô thị trung tâm (còn gọi là các đô thị vệ tinh). Xu thế này góp phần thực hiện chiến lược ĐTH nông
thôn một cách toàn diện. Một số quốc gia đang phát triển (trong đó có Việt Nam) có chiến lược phát triển đô thị theo hướng vừa tiếp tục đầu tư phát triển các khu đô thị cũ, bằng cách nâng cấp HTKT đô thị. Đồng thời mở rộng qui mô về diện tích đất đô thị và theo đó là qui mô dân số, nhưng vẫn ưu tiên cho việc hoạch định các khu đô thị mới hoàn toàn, trên cơ sở xây dựng các cụm công nghiệp, thương mại tập trung, nhằm tạo ra các trung tâm kinh tế trọng điểm có tính chất đầu tàu, hoặc làm ngòi nổ cho nền kinh tế của một vùng hay toàn bộ quốc gia (ví dụ đặc khu kinh tế Thẩm Quyến của Trung Quốc hay Khu công nghiệp Dung Quất của Việt Nam).
Từ những phân tích ở trên, luận án đưa ra khái niệm về đô thị là: đô thị là điểm tập trung dân cư mật độ cao, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, có cơ sở hạ tầng kỹ thuật phát triển; là trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của một vùng, một khu vực hay trong phạm vi cả nước.
Các quốc gia có trình độ phát triển khác nhau cũng có các qui định về qui mô và cách phân loại khác nhau đối với các đô thị (chủ yếu để sử dụng trong quản lý hành chính hoặc phục vụ mục tiêu quản lý hành chính). Tuy nhiên về cơ bản, để phân biệt đô thị với nông thôn hoặc đô thị lớn hay nhỏ, đô thị hiện đại hay đô thị kém phát triển…, người ta đưa ra một số tiêu chuẩn sau:
- Qui mô điểm dân cư đô thị có ít nhất 5000 người sống (ở các vùng miền núi hoặc vùng sâu vùng xa có thể ít hơn).
- Tỉ lệ lao động phi nông nghiệp chiếm 60% trở lên so với tổng số người trong độ tuổi lao động, là nơi tập trung các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ, thương mại.
- Cơ sở HTKT và các công trình công cộng phục vụ nhu cầu của dân cư đô thị phải hoàn thiện đồng bộ và hiện đại.
- Có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của một vùng lãnh thổ hay trong phạm vi toàn lãnh thổ quốc gia.
- Có mật độ cư trú được xác định theo từng loại đô thị phù hợp với đặc trưng của từng vùng.