nhanh. Những lợi thế này đã tạo điều kiện cho các DNNVV phát triển trong nhiều ngành nghề, trên nhiều địa bàn, bù lấp vào các khoảng trống mà các DN lớn để lại. Các DNNVV thường không đạt được lợi thế về hiệu quả về quy mô như các DN lớn. Hơn nữa, quy mô nhỏ và vấn đề minh bạch thông tin hạn chế cũng khiến cho các DN khó khăn trong việc tiếp cận với các nhà đầu tư để huy động vốn từ các NH cũng như từ thị trường chứng khoán. Vì vậy, các DNNVV phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn phi chính thức, chiếm dụng từ đối tác và lợi nhuận giữ lại.
Loại hình DN và ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh phong phú
DNNVV hoạt động dưới nhiều loại hình DN như DN tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần…trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Với mọi ngành nghề từ nông lâm thủy sản, công nghiệp đến thương mại dịch vụ, các DNNVV đều tham gia sản xuất, cung ứng với quy mô, chất lượng sản phẩm, giá bán tùy thuộc vào khách hàng tiềm năng của DN. Nhờ quy mô nhỏ, có sự tập trung được nguồn lao động và nguyên vật liệu tại địa phương, dễ dàng đáp ứng được những thay đổi trong nhu cầu của thị trường, sản phẩm đa dạng với nhiều phân khúc thị trường khác nhau nên DNNVV phát triển nhanh chóng, là nhân tố đóng góp vào gia tăng việc làm, ổn định đời sống xã hội, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Chiến lược sản xuất kinh doanh, trình độ khoa học kỹ thuật và năng lực cạnh tranh hạn chế
Nhiều DNNVV thiếu một chiến lược kinh doanh rõ ràng, phù hợp với sứ mệnh, mục tiêu của DN mà đa phần chỉ xây dựng các kế hoạch sản xuất kinh doanh mang tính tạm thời, ngắn hạn, đáp ứng nhu cầu biến động ngắn hạn của thị trường. Do đó, DNNVV thường có xu hướng đi lệch so với sứ mệnh và mục tiêu đề ra ban đầu, thiếu sự điều chỉnh kịp thời, hợp lý. Trong thời đại khoa học kỹ thuật thay đổi nhanh chóng, đầu tư vào công nghệ sẽ làm tăng số lượng, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí trở thành điều kiện cốt lõi để giúp bất kỳ một DN nào muốn nâng cao năng lực cạnh tranh. Đối với DNNVV, do quy mô vốn có hạn nên việc đầu tư nâng cấp, đổi mới các máy móc thiết bị, quy trình sản xuất không được thường xuyên dẫn tới tình trạng công nghệ sản xuất lạc hậu. Trình độ quản lý chủ DN không đồng đều, xuất phát điểm thấp nên năng lực điều hành hạn chế, sự nhạy bén trong kinh doanh chưa cao. Đó chính là những trở lực kìm hãm sự phát triển của DN.
Hoạt động của DNNVV phụ thuộc vào biến động của môi trường kinh doanh
Quy mô vốn ít, hoạt động sản xuất hàng hóa mang nặng tính thời vụ, thiếu chiến lược kinh doanh dài hạn, nguồn vốn bổ sung hạn chế dẫn đến mức độ đa dạng hóa hoạt động kinh doanh và tính ổn định của DNNVV tương đối thấp. Chính vì vậy, những thay đổi trong môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường kinh doanh thường có những ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của DNNVV, đặc biệt đối với các chính sách trong lĩnh vực tài chính, văn bản luật liên quan đến sản xuất và cung ứng sản phẩm. Tuy vậy, với quy mô nhỏ, DNNVV cũng có những lợi thế nhất định khi dễ dàng chuyển hướng kinh doanh sản xuất, tăng giảm lao động, đổi mới mẫu mã hàng hóa thậm chí di chuyển địa điểm sản xuất dễ dàng hơn các DN lớn.
Bộ máy điều hành gọn nhẹ, có tính linh hoạt cao nhưng năng lực quản trị còn yếu
Có thể bạn quan tâm!
- Tăng cường tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên - 2
- Sơ Lược Các Công Trình Nghiên Cứu Tiêu Biểu Về Tiếp Cận Tín Dụng Ngân Hàng
- Về Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Tiếp Cận Tín Dụng Nh Của Dnnvv
- Các Hình Thức Tín Dụng Của Ngân Hàng Đối Với Dnnvv
- Bài Học Kinh Nghiệm Về Tiếp Cận Tín Dụng Nh Của Dnnnvv
- Kinh Nghiệm Tiếp Cận Vốn Tín Dụng Nh Của Một Số Dnnvv Của Việt Nam
Xem toàn bộ 238 trang tài liệu này.
Với số lượng lao động không nhiều, cơ cấu tổ chức sản xuất cũng như bộ máy quản lý trong các DNNVV tương đối gọn, không có quá nhiều các khâu trung gian. Điều này làm tăng hiệu quả hoạt động của DN; các quyết định, chỉ tiêu...đến với người lao động một cách nhanh chóng, tiết kiệm chi phí quản lý DN. Áp dụng mô hình quản lý trực tiếp nên chiến lược kinh doanh thường được đưa ra nhanh chóng, nhạy bén với những thay đổi trong môi trường kinh doanh. Tuy nhiên, việc đưa ra các quyết định vội vàng kết hợp với việc thiếu nghiên cứu tình hình thị trường thường dẫn tới rủi ro kinh doanh cho DN. Đây là hạn chế xuất phát từ thực tế, một bộ phận ban lãnh đạo DNNVV ít được đào tạo qua các trường, lớp đúng chuyên ngành, thiếu những kiến thức cơ bản về tài chính, luật pháp, quản trị kinh doanh…
2.1.1.3. Vai trò DNNVV trong nền kinh tế
Với số lượng các DN ngày càng tăng, đóng góp của khu vực DNNVV ngày càng lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Vai trò của các DNNVV trong nền kinh tế được thể hiện trên các mặt sau:
Hệ thống DNNVV có vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo công ăn việc làm cho xã hội, giảm áp lực về việc làm và thất nghiệp. Với nền kinh tế đang có sự chuyển đổi mạnh như Việt Nam, tốc độ đô thị hóa gia tăng, đấy mạnh quá trình cơ cấu lại khu vực DN Nhà nước khiến lượng lao động dôi dư lớn cần được giải quyết việc làm. Các DNNVV ra đời đã giúp Nhà nước tháo gỡ vấn đề trên, tạo ra nhiều công việc mới với tốc độ tăng trưởng cao, góp phần tăng thu nhập của người lao động, cải thiện đời sống kinh tế, ổn định trật tự, an ninh xã hội.
Hình thành và phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động. Sự xuất hiện và phát triển của mỗi DN phụ thuộc rất nhiều vào những nhà sáng lập công ty. Do đặc thù số lượng DNNVV rất lớn, thường xuyên phải thay đổi để thích nghi với môi trường xung quanh, mức độ cạnh tranh lớn nên sự ra đời, phát triển, sáp nhập hoặc giải thể các DNNVV thường xuyên diễn ra trong mọi giai đoạn. Đó là sức ép lớn buộc người lãnh đạo DN cần linh hoạt trong quản lý, điều hành, dám nghĩ, dám làm và chấp nhận mạo hiểm. Sự có mặt của đội ngũ những người quản lý này cùng với khả năng, trình độ, nhận thức của họ về tình hình thị trường và khả năng nắm bắt cơ hội kinh doanh sẽ tác động lớn đến hoạt động của từng DN. Đối với một quốc gia, sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ quản lý chất lượng cao, họ sẽ tạo ra một cơ cấu kinh tế năng động, linh hoạt phù hợp với các giai đoạn phát triển của thị trường.
Hệ thống các DNNVV đã có những đóng góp quan trọng vào GDP, tốc độ tăng trưởng kinh tế, tăng thu NSNN và làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Là loại hình DN chiếm một tỷ lệ lớn trong hệ thống DN, các DNNVV ngày càng đóng góp nhiều hơn vào GDP quốc gia do số lượng lớn, phân bố rộng khắp, tham gia trong hầu hết các ngành, lĩnh vực và kinh doanh ngày càng hiệu quả hơn. Chính điều này đã giúp cho Chính phủ chủ động hơn trong các quyết định liên quan đến sử dụng tài chính cho mục đích phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng sản xuất của khu vực DNNVV thường cao hơn so với các khu vực DN khác nên được coi là nhân tố chính để nâng cao vị thế của đất nước. Đặc biệt những DN thành lập ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa trong quá trình tái cấu trúc kinh tế nông thôn, đô thị hóa sẽ làm giảm tỷ trọng đóng góp vào GDP của khu vực nông nghiệp và tăng tại các ngành phi nông nghiệp trong cơ cấu phát triển kinh tế Việt Nam. Điều này sẽ giúp cho việc chuyển dịch cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế phù hợp hơn.
Đóng góp vào quá trình nâng cao trình độ khoa học công nghệ trong sản xuất. Với sự năng động của mô hình DN này, các DNNVV là chủ thể đi tiên phong trong việc áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ mới, sáng kiến về kỹ thuật. Do áp lực cạnh tranh nên DNNVV thường xuyên phải cải tiến công nghệ, tạo sự khác biệt để có thể kinh doanh thành công. Mặc dù không tạo ra được những phát minh, sáng kiến mang tính đột phá nhưng nó là những động lực cho sự thay đổi tiến bộ khoa học và công nghệ.
Tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Với sự tồn tại của nhiều DN hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực sẽ làm giảm tính độc quyền và buộc các DN phải chấp nhận cạnh tranh, phải liên tục đổi mới để tồn tại, phát triển. Bằng sự linh hoạt của mình, các DNNVV cũng sẽ tạo sức ép cạnh tranh đối với các công ty lớn. Ngoài ra, nhiều DNNVV còn đóng vai trò là vệ tinh cho DN lớn, thúc đẩy quá trình chuyên môn hóa và phân công lao động, tăng hiệu quả của các DNNVV và DN đối tác. Nếu kinh doanh thuận lợi DNNVV có xu hướng mở rộng sản xuất theo cả hai hướng: chiều rộng và chiều sâu tạo tiền đề cho việc hình thành DN lớn. Đồng thời, lành mạnh môi trường đầu tư và kinh doanh sẽ tạo ra sự cạnh tranh đa dạng trong nền kinh tế.
DNNVV là trụ cột của kinh tế địa phương. Nếu DN lớn thường đặt cơ sở ở những trung tâm kinh tế, vùng phát triển thì DNNVV có mặt ở khắp các địa phương, vùng miền trên cả nước và là chủ thể đóng góp quan trọng vào thu ngân sách, gia tăng sản lượng, tạo công ăn việc làm ở địa phương. Chính điều này đã giúp cho DN tận dụng và khai thác tốt các nguồn lực tại chỗ. Theo Báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh & Xã hội năm 2016, DNNVV đã sử dụng gần 1/2 lực lượng sản xuất lao động phi nông nghiệp (49%) trong cả nước, cá biệt có những vùng 100% lao động phi nông nghiệp đều làm việc tại DN. Ngoài ra, DN còn sử dụng nguồn tài chính của dân cư, nguồn nguyên liệu tại địa phương để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập cho người dân trong vùng. Hơn nữa, DNNVV là tiền đề tạo ra một môi trường văn hóa kinh doanh mang tính kinh tế thị trường, tạo ra những nhà kinh doanh giỏi.
Những đóng góp cho kim ngạch xuất khẩu của đất nước. Một phần không nhỏ các DNNVV tham gia vào những ngành nghề có giá trị xuất khẩu cao như dệt may, nông lâm thủy sản, thủ công mỹ nghệ…Vì vậy, DNNVV là lực lượng rất quan trọng trong hoạt động mở rộng xuất khẩu. Một số ngành nghề, đặc biệt là hàng thủ công mỹ nghệ, hàng truyền thống đặc trưng, sản phẩm xuất khẩu địa phương chủ yếu do các DNNVV đảm nhiệm.
2.1.2. Tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
2.1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng, tiếp cận tín dụng NH của DNNVV
a. Khái niệm
Tín dụng NH
Danh từ “tín dụng” xuất phát từ một từ gốc Latinh “Creditumco” - nghĩa là một sự tín nhiệm, tin tưởng lẫn nhau (Lê Văn Tề, 2013). Tín dụng NH là quan hệ tín dụng giữa một bên là NH, một bên là chủ thể khác trong nền kinh tế như tổ chức, DN, cá nhân…Tuy nhiên, khác với các hình thức tín dụng tồn tại hiện nay, đây không phải là quan hệ dịch chuyển vốn trực tiếp từ nơi tạm thời thừa vốn sang nơi tạm thời thiếu vốn, mà thông qua một tổ chức trung gian - NH. Nhưng vẫn mang bản chất chung của quan hệ tín dụng là sự vay mượn hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định. Ngoài ra, có thể hiểu tín dụng NH là một giao dịch về tài sản giữa bên cho vay và bên đi vay, trong đó các NH, tổ chức tín dụng vừa là bên đi vay vừa là bên cho vay. Bên cho vay chuyển giao tạm thời quyền sử dụng tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có nghĩa vụ hoàn trả lại vô điều kiện đầy đủ vốn và lãi cho bên cho vay khi đến thời hạn thanh toán. Tài sản giao dịch trong hình thức cấp tín dụng chủ yếu dưới dạng tiền tệ (Nguyễn Thế Bính, 2013).
Theo quan điểm của các nhà kinh tế: Tín dụng (cho vay) được hiểu như sau: Cho vay phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa một bên là người cho vay (NHTM) còn bên kia là người vay (khách hàng vay vốn - DN). Nếu tiếp cận theo chức năng hoạt động của NH thì tín dụng được hiểu: là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (NH và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, DN và các chủ thể khác) trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả về điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán (Trần Trọng Huy, 2013). Dựa vào nội dung về Cấp tín dụng tại khoản 14 và 16 điều 4 Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 được Quốc hội Việt Nam ban hành ngày 29/6/2010 có thể hiểu: Tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay hoặc 1 số nghiệp vụ khác.
Từ những quan điểm trên, luận án đưa ra khái niệm về tín dụng NH đối với DNNVV phù hợp với nội dung nghiên cứu như sau: “Tín dụng NH đối với DNNVV là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị nhất định biểu hiện dưới hình thức tiền tệ từ NH (bên cung cấp tiền tệ) sang người sử dụng (bên cầu tiền tệ - DNNVV) bằng nhiều nghiệp vụ khác nhau trong đó có nghiệp vụ cho vay. Sau một khoảng thời gian nhất định NH sẽ thu hồi về với giá trị lớn hơn số tiền đã cho vay, bao gồm phần tiền ban đầu và tiền lãi có được từ số tiền cho vay đó”.
Tiếp cận tín dụng NH
Tiếp cận là một cụm từ chung dùng để miêu tả mức độ một sản phẩm, thiết bị, dịch vụ hoặc môi trường có thể được sử dụng bởi càng nhiều người càng tốt. Tiếp cận có thể được xem như tiếp cận và sự hưởng lợi từ một hệ thống hay vật chất (Từ điển Việt Nam - wikipedia). Theo báo cáo của World Bank (2008) tiếp cận tín dụng được hiểu là sự vắng mặt của các rào cản về chi phí phát sinh hoặc không có chi phí phát sinh khi sử dụng các dịch vụ tài chính. Điều này không có nghĩa là tất cả DN sẽ có thể được vay số tiền theo nhu cầu với lãi suất chính thức. Kitili (2012) cho rằng tiếp cận tín dụng đề cập đến sự dễ dàng mà các DNNVV có thể nhận được sự hỗ trợ tài chính hoặc các khoản vay từ tổ chức cho vay. Theo Nguyễn Thị Kim Lý (2013): “Khả năng tiếp cận vốn là khả năng của DN nghiên cứu, nhận biết, nắm bắt và có thể được cung ứng vốn với các chi phí vốn thấp nhất, có thể chấp nhận được bởi cả hai phía là DN (người cần vốn) và người cung cấp vốn”. Đặng Thị Huyền Hương (2016) cho rằng: “Tiếp cận nguồn vốn vay của DN là khả năng DN có thể đáp ứng được các điều kiện vay vốn theo quy định của tổ chức tín dụng tại mức lãi suất phù hợp và tổ chức tín dụng sẵn sàng cho vay”.
Như vậy, trong nội dung của luận án khái niệm tiếp cận tín dụng NH của DN được hiểu như sau: “Tiếp cận tín dụng NH của DNNVV là việc DN có thể đáp ứng các yêu cầu từ phía NH để vay được vốn với lãi suất phù hợp trong điều kiện không phát sinh hoặc có phát sinh các chi phí ngoài nhưng ở mức độ thấp”.
b. Đặc điểm tín dụng NH
Tín dụng NH đối với DNNVV chứa đựng một số đặc điểm như sau:
- Về đối tượng dùng để cấp tín dụng: được thực hiện chủ yếu dưới hình thái tiền tệ gồm tiền mặt và tiền tín dụng (bút tệ).
- Chủ thể trong quan hệ tín dụng NH: Trong quan hệ tín dụng NH, người đi vay là DNNVV; người cho vay là các NH, tổ chức tín dụng.
- Tín dụng mang tính hoàn trả nhưng có lãi: DN vay tiền sau thời hạn quy định sẽ phải hoàn trả toàn bộ tiền vay và phần tiền lãi (theo quy định) cho việc sử dụng khoản tiền vay đó đối với NH.
- Nguồn tiền dùng để NH cấp tín dụng cho DNNVV đến từ hai nguồn gồm: vốn tự có của NH và nhận tiền gửi của khách hàng. Cụ thể:
+ Vốn tự có gồm giá trị thực của vốn điều lệ của tổ chức tín dụng hoặc vốn được cấp của chi nhánh NH nước ngoài và các quỹ dự trữ, một số tài sản nợ khác theo quy định của NHNN Việt Nam.
+ Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận (Nguyễn Văn Lê, 2014).
- Quá trình vận động và phát triển của tín dụng NH không hoàn toàn phù hợp với qui mô phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Vì tín dụng NH được cấp dưới hình thái tiền tệ có thể đáp ứng các nhu cầu khác nhau ngoài nhu cầu sản xuất và lưu thông hàng hóa (Nguyễn Thế Bính, 2013).
2.1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Cân đối cung cầu vốn trên thị trường
NH ra đời gắn liền với sự vận động trong quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Cần lưu ý khi quan hệ hàng hoá tiền tệ còn tồn tại thì hoạt động tín dụng không thể mất đi, thậm chí ngày càng phát triển một cách mạnh mẽ. Bởi vì trong nền kinh tế, tại một thời điểm tất yếu sẽ phát sinh hai loại nhu cầu là: DN thừa vốn cho vay để hưởng lãi và DN thiếu vốn đi vay để tiến hành sản xuất kinh doanh. Hai loại nhu cầu này ngược nhau nhưng có chung một đối tượng đó là tiền tệ, chung nhau về tính tạm thời và cả hai bên đều thoả mãn nhu cầu - đều có lợi. NH ra đời với vai trò là nơi hiểu biết rõ nhất về tình hình cân đối giữa cung - cầu vốn trên thị trường như thế nào. Với hoạt động tín dụng, NH đã giải quyết được hiện tượng thừa
- thiếu vốn bằng cách huy động mọi nguồn tiền nhàn rỗi để phân phối lại vốn trên nguyên tắc hoàn trả có lãi nhằm phục vụ kịp thời cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh của DN.
Thúc đẩy các DNNVV nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, tăng cường quản lý và sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả
Trong quá trình SXKD, DN không những cần nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, chế độ hạch toán kế toán…mà còn phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, sử dụng vật liệu mới, mở rộng qui mô sản xuất phù hợp…Những hoạt động này đòi hỏi lượng lớn vốn đầu tư đôi khi vượt quá nguồn vốn tự có của DN. Giải quyết khó khăn này,
DNNVV có thể tìm đến NH để vay vốn, đáp ứng mục tiêu kinh doanh của mình. Chủ DN khi nhận khoản vay cần phải có nhiều chiến lược kinh doanh hợp lý nhằm gia tăng lợi nhuận để có thể chi trả những khoản vay đúng hạn. Điều này thúc đẩy các DN cần quan tâm hơn nữa đến hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng vòng quay vốn tạo điều kiện nâng cao khả năng tối đa hoá lợi nhuận. Việc quản lý vốn thông qua quá trình hạch toán kinh tế góp phần củng cố chế độ kế toán trong các DNNVV thêm vững chắc nhờ đó việc vay vốn trong những lần tiếp theo được thuận lợi hơn. Như vậy, nguồn vốn tín dụng NH cấp cho DNNVV đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh, bắt kịp xu thế và theo kịp với nhịp độ phát triển chung, từ đó tạo mình một chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh. Mặt khác, tín dụng NH cũng tác động mạnh mẽ vào việc tiêu thụ sản phẩm cho các DN thông qua việc mở rộng tín dụng tiêu dùng; cho vay hoặc bảo lãnh để các tổ chức kinh tế, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực lưu thông mua bán hàng hoá. Tuy nhiên, NH chỉ tập trung cho vay những đối tượng hàng hoá có chất lượng cao, có sức cạnh tranh tốt, qua đó thúc đẩy việc xác lập cơ cấu kinh tế mới theo hướng hiện đại. Do vậy, để vay được nhiều vốn DN cần nỗ lực phấn đấu phát triển nhằm nâng cao năng lực SXKD.
Tạo điều kiện cho các DNNVV tiếp cận các nguồn vốn từ nước ngoài
Bên cạnh việc kích thích các tổ chức kinh tế và cá nhân trong nước thực hiện tiết kiệm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn tiền tệ, tín dụng NH còn thu hút nguồn vốn nước ngoài dưới nhiều hình thức như trực tiếp vay bằng tiền, bảo lãnh cho DNNVV mua thiết bị trả chậm, sử dụng hạn mức L/C, thanh toán qua mạng SWIFT...Tín dụng NH trở thành một trong những phương tiện nối liền kinh tế các nước với nhau bằng các hoạt động tín dụng quốc tế như các hình thức tín dụng giữa các tổ chức cá nhân (DN) với Chính phủ, giữa các DN ở các quốc gia...Nhờ đó, quan hệ quốc tế được mở rộng tạo điều kiện thuận lợi cho DN, đặc biệt là các DNNVV hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Tóm lại, tín dụng NH có vai trò vô cùng quan trọng đối với DN nói chung và DNNVV tại Việt Nam nói riêng. Tín dụng NH là cầu nối giữa người có vốn và người cần vốn, từ đó thúc đẩy tái sản xuất mở rộng tạo điều kiện thuận lợi cho DN phát triển bền vững. Mặt khác, tín dụng NH còn thúc đẩy các DN tăng cường chế độ hạch toán kinh doanh, khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế, sử dụng hợp lý khoản tiền vay với mục tiêu mở rộng thị trường, nâng cao vị thế của DN.