Thực Trạng Tổ Chức Thực Hiện Pháp Luật Giao Thông Đường Bộ

Điều này sẽ gây nguy hiểm bất cứ lúc nào cho người tham gia giao thông. Hoặc chưa có quy định xử lý đối với những trường hợp xe quá cũ vẫn còn lưu hành trên đường.

Trong một thời gian khá dài, Bộ luật hình sự năm 1985 qua bốn lần sửa đổi nhưng vẫn không quy định hành vi đua xe trái phép, tổ chức đua xe trái phép là hành vi phạm tội, gây rất nhiều khó khăn trong việc đấu tranh ngăn chặn tình trạng này.

Ba là, tính khoa học, chính xác, kỹ thuật lập pháp khi xây dựng pháp luật GTĐB chưa cao. Chẳng hạn điều 4 Luật Giao thông đường bộ năm 2001 chỉ xác định phạm vi điều chỉnh là quy tắc GTĐB, các điều kiện đảm bảo an toàn GTĐB của kết cấu hạ tầng, phương tiện và người tham gia GTĐB, hoạt động vận tải đường bộ mà hệ thống báo hiệu đường bộ không được đề cập đến, nó được nhà làm luật đưa vào chương quy tắc GTĐB (Điều 10 và Điều 11).

Hệ thống báo hiệu đường bộ là những phương thức dùng để báo, chỉ dẫn hoặc điều khiển quá trình giao thông của người và phương tiện đường bộ nhằm đảm bảo an toàn giao thông. Khoản 1 Điều 10 Luật Giao thông đường bộ năm 2001 quy định: “Hệ thống báo hiệu đường bộ gồm hiệu lệnh của người điều khiển giao thông, tín hiệu đèn giao thông, biển báo hiệu, vạch kẻ đường, cọc tiêu hoặc tường bảo vệ, hàng rào chắn”. Hệ thống báo hiệu đường bộ có quan hệ hữu cơ với quy tắc GTĐB. Với đặc tính “thông báo” nó góp phần biểu thị quy tắc GTĐB cho người sử dụng đường biết để tuân theo. Hệ thống báo hiệu đường bộ là một thành tố quan trọng để cấu thành pháp luật GTĐB luôn được bổ sung và sửa đổi thường xuyên để phù hợp với hoạt động giao thông vận tải trong từng giai đoạn. Cho nên, nó cần được xác định là một nội dung nằm trong phạm vi điều chỉnh của Luật Giao thông đường bộ và tách khỏi quy tắc GTĐB. Như vậy, nó sẽ khoa học hơn, chính xác hơn.

Hoặc tại Điều 3 Luật Giao thông đường bộ năm 2001 đưa ra và giải thích 21 thuật ngữ có liên quan đến hoạt động GTĐB. Nhưng tại các điều khoản khác của Luật Giao thông đường bộ lại tiếp tục giải thích các thuật ngữ khác (chẳng hạn tại khoản 1 Điều 37 giải tích thuật ngữ "mạng lưới đường bộ"; Điều 59 giải thích thuật ngữ “hoạt động vận tải khách”, “vận tải bằng đường bộ” ). Đáng lẽ phải tập trung giải thích các thuật ngữ cần giải thích và một điều luật, như vậy nó sẽ tránh sự tản mạn, người đọc, người nghiên cứu, người áp dụng sẽ thấy dễ hiểu, dễ áp dụng hơn, thể hiện kĩ thuật lập pháp cao hơn. Mặt khác, nội dung giải thích các thuật ngữ còn chưa đủ, chưa đảm bảo

tính khái quát, tính chính xác và thật sự khoa học. Chẳng hạn về khái niệm người tham gia GTĐB thì được giải thích là người điều khiển, người sử dụng phương tiện; người điều khiển, dẫn dắt súc vật và người đi bộ trên đường bộ còn những người làm một số công việc khác như nhân viên môi trường đô thị, người sửa chữa, thay thế các thiết bị kết cấu hạ tầng GTĐB… không được xác định là người tham gia giao thông.

2.2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Đi liền với việc xây dựng, ban hành pháp luật GTĐB là vấn đề tổ chức thực hiện pháp luật GTĐB. Ở nước ta, từ những năm trước đây vấn đề tổ chức thực hiện pháp luật GTĐB luôn được được Đảng và Nhà nước quan tâm.

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, vấn đề tổ chức thực hiện pháp luật GTĐB được đánh giá ở một số khía cạnh sau đây:

Thứ nhất, thực trạng tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về kết cấu hạ tầng GTĐB.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.

“Kết cấu hạ tầng GTĐB gồm công trình đường bộ, bến xe; bãi xe và hành lang an toàn đường bộ” [14, tr.25]. Những năm gần đây, thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, thực hiện các quy định pháp luật về kết cấu hạ tầng giao thông, kết cấu hạ tầng giao thông được tập trung đầu tư mạnh mẽ. Kết cấu hạ tầng giao thông được coi là khâu quan trọng nên cần phải đi trước một bước tạo tiền đề thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội.

Mạng lưới đường bộ nước ta tính đến tháng 6 năm 2004 có tổng chiều dài là 213.995 km, trong đó quốc lộ là 17.295 km, đường địa phương là 196.700 km (bao gồm đường tỉnh, đường đô thị, đường xã, đường chuyên dùng) (xem phụ lục 1).

Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay - 6

Trên mạng đường bộ Việt Nam có 7.879 chiếc cầu với chiều dài 223.818 km, xây dựng từ lâu, ngoài việc hư hỏng do khí hậu và thời gian, lại bị chiến tranh tàn phá, tính đến năm 2004 trên 30% số cầu cần được gia cố hoặc thay thế. Vẫn còn hàng trăm bến phà qua sông, phần lớn phương tiện và cầu bến cần được nâng cấp và thay thế, nhưng phải sử dụng.

Một điểm đáng chú ý nữa là trên mạng lưới giao thông nước ta hiện nay, các giao cắt giữa đường bộ - đường bộ, đường bộ - đường sắt chủ yếu là giao cắt đồng

mức. Hiện nay trong các dự án khôi phục, nâng cấp mạng lưới giao thông đã xây dựng một số giao cắt khác mức, phần nào đã cải thiện được việc lưu thông phương tiện.

Trên mạng đường bộ nước ta có tới 193 đèo, dốc với tổng chiều dài 1153km, phần lớn các đoạn đường đèo dốc được xây dựng từ lâu và nằm trên các triền đồi, vách núi cao, vực sâu có địa hình và thuỷ văn hết sức phức tạp. Các phương tiện, thiết bị phòng hộ, cảnh báo như cọc tiêu, vạch chỉ đường, gương phản chiếu hình cầu lồi… rất thiếu và không đảm bảo kỹ thuật.

Giao thông tĩnh (bến đỗ, điểm dừng...) ở các đô thị vẫn là vấn đề bức xúc, quỹ đất dành cho giao thông phải từ 20-25% ( trong đó có giao thông tĩnh) nhưng thực tế hiện nay mới chỉ đạt 6,1%

Theo số liệu kiểm tra của Cục đường bộ Việt Nam đến cuối năm 2004 trên quốc lộ 1A mới (Hà Nội - Lạng Sơn) Quốc lộ 5, đường Láng - Hoà Lạc đã có hàng trăm vụ vi phạm hành lang bảo vệ đường bộ như xây dựng nhà, dựng lều quán, họp chợ, mở đường ngang... thậm chí nhiều chiếc cống đã bị lắp, mất tác dụng thoát nước ở đường 1A mới thuộc địa phận tỉnh Lạng Sơn do việc san đất của các hộ dân gây ra… các quốc lộ khác trên toàn quốc cũng đang trong tình trạng chung như vậy.

Trong năm 2004 theo báo cáo Bộ giao thông vận tải nhiều dự án lớn về kết cấu hạ tầng GTĐB hoàn thành vượt tiến độ, thể hiện sự quyết tâm của Chính phủ, các Bộ, ngành có liên quan trong việc triển khai thực hiện một cách có hiệu quả các quy định pháp luật về kết cấu hạ tầng GTĐB. Có thể thấy đó là các dự án trọng điểm như Quốc lộ 6, Quốc lộ 2, Quốc lộ 3, Quốc lộ 32, dự án cầu Yên Lệnh, cầu Đà Rằng, BOT đèo Ngang, BOT An Lương - An Lạc. Đặc biệt trong năm 2004 đã khởi công xây dựng một số dự án có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của một số vùng nói riêng, cả nước nói chung như dự án cầu Cần Thơ, dự án đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương

Tuy vậy, phải thấy rằng việc tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về kết cấu hạ tầng GTĐB ở nước ta còn chậm, thiếu đồng bộ, còn nhiều vi phạm các quy định về Luật Giao thông đường bộ đặc biệt là các quy định về kết cấu hạ tầng giao thông, vi phạm các quy định về bảo vệ công trình giao thông. Hệ thống văn bản pháp luật quy định về kết cấu hạ tầng giao thông còn thiếu, tính phù hợp chưa cao, chậm được các cấp các ngành triển khai thực hiện. Chẳng hạn như Nghị định số

186/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05 tháng 11 năm 2004 quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ theo đánh giá của Chính phủ hiện nay chưa được các cấp các ngành thực thi một cách nghiêm chỉnh, nhiều địa phương chưa có kế hoạch triển khai thực hiện. Ở nước ta đường có tiêu chuẩn kỹ thuật cao (cấp I, cấp II) chiếm tỷ lệ thấp (41%); còn nhiều tuyến chưa đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn giữa cầu và đường chưa đồng bộ, ở một số vùng đặc biệt là vùng núi đường chưa thông xe được bốn mùa; hành lang bảo vệ an toàn giao thông chưa đảm bảo đúng tiêu chuẩn, hai bên đường giao thông có nhiều cơ sở sản xuất và hộ dân xây nhà lấn chiếm hành lang, việc giải phóng mặt bằng để cải tạo, mở rộng, nâng cấp rất khó khăn, khối lượng đền bù rất lớn. Nhiều cầu, cống, tuyến đường xây dựng trước đây có khẩu độ cầu, cống, cao độ nền đường không phù hợp với chế độ thuỷ văn hiện nay nên trong mùa mưa lũ nhiều đoạn đường bị ngập và sụt lở. Chính vì vậy, mà hiện nay và những năm tiếp theo Đảng và Nhà nước ta phải thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông phục vụ đắc lực cho công cuộc CNH, HĐH đất nước trong đó việc tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về kết cấu hạ tầng GTĐB nói riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó là động lực thúc đẩy GTĐB phát triển, là tiền đề để các lĩnh vực của đời sống xã hội không ngừng phát triển.

Thứ hai, thực trạng tổ chức thực hiện các quy định pháp luật đối với phương tiên giao thông cơ giới đường bộ.

Điều 3 Luật Giao thông đường bộ năm 2001 quy định: “phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (sau đây gọi là xe cơ giới) gồm ôtô, máy kéo, xe môtô hai bánh, xe môtô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe tương tự, kể cả xe cơ giới dùng cho người tàn tật” [14, tr.47].

Thực hiện các quy định pháp luật đối với các phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, trong năm 2002 số phương tiện giao thông cơ giới đường bộ được đăng ký mới là 50309 xe ôtô, 1.914.817 mô tô. Trong năm 2003 số lượng ô tô đăng ký mới là 68.378 tăng 10,1% với năm 2002, xe môtô đăng kí mới là 1.105.748 tăng 9,7% so với năm 2002; năm 2004 số lượng ôtô đăng ký mới là 99.000 chiếc tăng so với năm 2003 tăng 14,7%, xe môtô đăng ký mới là 1.996.000 chiếc tăng so với năm 2003 là 17,5%.

Qua công tác đăng ký và kiểm định cho thấy tỷ lệ xe cơ giới hai bánh (môtô, xe máy) chiếm tỷ lệ trên 90%, ô tô chiếm khoảng 6%, xe ba bánh chiếm 3,4%, còn lại là các

loại phương tiện khác. Phương tiện đã sử dụng mười năm trở lên chiếm tỷ lệ cao, chất lượng các loại phương tiện kém, tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn thấp. Năm 2000 theo báo cáo của Bộ giao thông vận tải có 553.750 phương tiện cơ giới đường bộ được kiểm tra an toàn kỹ thuật thì có 97.143 xe không đạt tiêu chuẩn an toàn, trong đó hệ thống phanh chiếm 70.25%, hệ thống lái là 21.7%. Việc tổ chức và quản lý sử dụng phương tiện cơ giới đường bộ gồm nhiều thành phần kinh tế, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, tư nhân sở hữu và tổ chức khai thác phục vụ các mục đích khác nhau.

Với số lượng, chất lượng phương tiện ôtô vận tải hiện nay ở nước ta đã dẫn đến năng suất vận tải kém hiệu quả so với các nước trên thế giới. Theo số liệu của Hiệp hội cầu đường quốc tế năng suất phương tiện vận tải ô tô của một số nước như sau:

- Về vận tải hàng hoá

Anh: 558.750 T.km/xe/năm; Mỹ: 32.655 T.km/xe/năm; Nhật: 31.601 T.km/xe/năm; Pháp: 30098 T.km/xe/năm; Ý: 40.000 T.km/xe/năm; Việt Nam: 16.080 T.km/xe/năm.

- Về vận tải hành khách: Anh: 558.750 HK. Km/xe/năm; Mỹ: 609.440HK. Km/xe/năm; Nhật: 780.560HK.km/xe/năm; Pháp: 879.949 HK.km/xe/năm; Ý: 964.400HK.km/xe/năm; Việt Nam: 224.058HK.km/xe/năm.

Riêng cường độ vận tải của phương tiện giao thông cơ giới đường bộ nước ta so với một số nước trong khu vực ở mức độ trung bình về hàng hoá, ở mức độ cao về hành khách (xem phụ lục 4).

Trước tình trạng gia tăng nhanh chóng của các phương tiện cơ giới đường bộ rất nhiều địa phương còn lúng túng trong việc thực hiện các biện pháp để hạn chế sự gia tăng của các phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, ban hành nhiều quy định không phù hớp, bất bình đẳng, không đảm bảo tính pháp chế, chẳng hạn hạn chế không cho một người sở hữu hai xe môtô, người có hộ khẩu ở thành phố phải chịu mức thuế cao hơn, tạm dừng việc đăng ký phương tiện giao thông cơ giới đường bộ trong thời gian nhất định. Mặt khác, còn nhiều vi phạm trong công tác kiểm định, sát hạch cấp giấy phép lái xe.

Thứ ba, thực trạng tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về tổ chức GTĐB.

Tổ chức GTĐB có vai trò quan trọng trong công tác bảo đảm trật tự an toàn GTĐB trong khi ý thức của người tham gia giao thông chưa tự giác cao hoặc thiếu hiểu biết về

pháp luật GTĐB, kết cấu hạ tầng GTĐB còn yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu của vận tải thì việc tổ chức giao thông hợp ly, khoa học có vai trò quan trọng trong việc làm giảm ùn tắc, hạn chế tai nạn GTĐB.

Trong nhiều năm qua, thực hiện các Nghị định của Chính phủ về đảm bảo trật tự an toàn GTĐB và trật tự an toàn đô thị, tình hình trật tự an toàn giao thông đã có chuyển biến rõ rệt, ý thức chấp hành pháp luật GTĐB của người tham gia giao thông được nâng lên, trật tự lòng đường, vỉa hè được thông thoáng hơn, hạn chế ùn tắc giao thông, công tác QLNN về trật tự an toàn giao thông được tăng cường.

Tại điều 20 Nghị định số 14/2003/NĐ-CP ngày 19/02/2003 của Chính phủ quy định Bộ Công an có trách nhiệm: “Hướng dẫn việc chỉ huy điều khiển giao thông trên đường bộ, tổ chức, chỉ đạo công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý đối với người và phương tiện tham gia giao thông”.

Tính đến tháng 5 năm 2003 cả nước có 56 địa phương đặt đèn tín hiệu điều khiển giao thông tự động, với tổng số 734 cụm đèn tín hiệu nhưng việc khảo sát tính toán chu kỳ đèn tín hiệu ở các hướng chưa được hợp lý.

Việc phân bố các dòng giao thông và đi bộ trong không gian ở các đô thị hầu như chưa được nghiên cứu một cách hệ thống và khoa học, dự án tổ chức giao thông chưa được quan tâm đúng mức (trừ Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh), vấn đề lựa chọn phương tiện cho các đô thị, nhất là cho vận chuyển hành khách công cộng còn nhiều vướng mắc. Một số đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành một số biện pháp tổ chức giao thông, bước đầu đã đem lại hiệu quả cao như tổ chức phân luồng, phân tuyến, quy định đường một chiều, hạn chế hoặc cấm một số xe đi vào nội đô để tránh ùn tắc giao thông và ô nhiễm môi trường; cải tạo mở rộng một số nút giao thông hẹp hoặc ứng dụng tổ chức các nút giao thông khác mức, tổ chức giao thông kiểu đảo cố định hoặc dựng đảo mềm như nút giao thông Nam cầu Chương Dương (Hà Nội) nút giao thông Hàng Xanh, Phú Lâm (Thành phố Hồ Chí Minh)… có tác dụng rất lớn trong tổ chức giao thông.

Tại các đô thị lớn, nhất là Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, do số lượng phương tiện cơ giới đường bộ tăng nhanh, các tuyến đường và nút giao thông chưa được mở rộng, phương tiện vận tải công cộng vừa yếu, vừa thiếu đã dẫn đến ùn tắc

giao thông vào giờ cao điểm các nút giao thông chính và các đoạn đường trước cửa các trường học vào giờ tan học.

Để chủ động khắc phục, giải quyết nạn ùn tắc giao thông, Cục cảnh sát giao thông đường bộ đường sắt đã tổ chức Hội thảo và xây dựng phương án xử lí ùn tắc giao thông tại các tuyến quốc lộ ra vào Hà Nội, tham mưu cho Tổng cục cảnh sát chủ trì Hội thảo với các ngành, bàn biện pháp xử lí ùn tắc giao thông tại các cầu trên quốc lộ 1 vào Thành phố Hồ Chí Minh. Sau Hội thảo, Hà Nội và các địa phương giáp ranh và Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Vĩnh Long, Tiền Giang đã lập phương án xử lí ùn tắc tại các địa phương, trình Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố phê duyệt. Lực lượng cảnh sát giao thông phối hợp với ngành Giao thông vận tải nghiên cứu khảo sát tổ chức giao thông trên các quốc lộ trọng điểm như quốc lộ 1, quốc lộ 5, quốc lộ 51, quốc lộ 18, quốc lộ 10... Đồng thời phối hợp tổ chức phân luồng, phân tuyến hợp lý các khu đầu mối giao thông và các đô thị. Lực lượng cảnh sát giao thông bố trí đủ cán bộ chiến sĩ tổ chức chỉ huy giao thông ở những nút giao thông phức tạp, những tuyến đường hay xảy ra ùn tắc nên đã hạn chế được ùn tắc giao thông hoặc ùn tắc xảy ra không để kéo dài. Bộ Công an ban hành Quyết định số 259/2001/ QĐ-BCA (C11) ngày 05 tháng 4 năm 2001 ban hành quy trình chỉ huy điều khiển giao thông tại các đô thị, góp phần quan trọng trong việc giải quyết nạn ùn tắc giao thông, giảm thiểu tai nạn giao thông xảy ra.

Tuy nhiên, việc thực hiện các quy định pháp luật về tổ chức GTĐB còn một số khuyết điểm, bất cập. Đó là tình trạng một số tuyến đường làm mới hoặc nâng cấp chưa chú trọng đến việc tổ chức giao thông như xây dựng giải phân cách cứng, lắp đặt giải phân cách mềm, kẻ vạch sơn phân làn chưa hợp lý, tại các đô thị lớn việc quy định đường một chiều, hai chiều, bố trí đèn tín hiệu… chưa được quan tâm đúng mức. Việc tái lấn chiếm lòng đường, vỉa hè làm nơi buôn bán, để xe tập kết vật liệu xây dựng... diễn ra nghiêm trọng. Tại nơi đường bộ giao nhau với đường sắt hầu hết là giao cắt trên cùng một mặt bằng, biển báo và thiết bị phòng vệ còn thiếu. Đây là những vấn đề cần được khắc phục nhanh chóng.

Thứ tư, thực trạng tổ chức công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật GTĐB.

Trong những năm qua, các ngành hữu quan đã có nhiều cố gắng trong công tác tuyên truyền hướng dẫn, vận động quần chúng nhân dân chấp hành các quy định pháp

luật GTĐB với nhiều hình thức, nội dung phong phú, thiết thực. Ủy ban An toàn giao thông quốc gia đã chỉ đạo nhiều địa phương tổ chức các cuộc triễn lãm tranh ảnh về đề tài GTĐB, định kỳ hai năm một lần tổ chức Hội thi “ Liên quan băng hình toàn quốc về trật tự an toàn giao thông", sau đó tổ chức tiếp cuộc thi "Toàn dân xem phim an toàn giao thông, thực hành luật lệ giao thông" thu hút hàng triệu lượt người tham gia, tổ chức thành công hội thi “Lái xe an toàn” ở các ngành, các địa phương và toàn quốc nhằm nâng cao tay nghề, đạo đức của đội ngũ lái xe trong việc chấp hành pháp luật GTĐB và đảm bảo an toàn cho tài sản nhà nước, tính mạng, sức khoẻ nhân dân. Ở các địa phương lực lượng cảnh sát giao thông, phối hợp với các ngành tham mưu cho Ủy ban nhân dân các cấp tổ chức nhiều Hội nghị bàn các biện pháp bảo đảm trật tự an toàn GTĐB, tích cực vận động các tầng lớp nhân dân dọc các tuyến đường, học sinh các trường phổ thông, phát động toàn ngành Giao thông vận tải tham gia các phong trào bảo vệ trật tự an toàn giao thông, xây dựng các “tuyến đường, đường phố tự quản” về trật tự an toàn giao thông.

Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật GTĐB trong những năm qua thể hiện sự năng động và đạt nhiều kết quả. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công an đã phối hợp với Ủy ban An toàn giao thông quốc gia tổ chức biên soạn tài liệu, giáo trình, tập huấn cho đội ngũ giáo viên, từng bước đưa chương trình giáo dục pháp luật GTĐB vào chương trình chính khoá từ mầm non đến phổ thông trung học. Các ngành chức năng đã phối hợp xây dựng hàng ngàn phim, phóng sự, tiểu phẩm về trật tự an toàn GTĐB, duy trì thường xuyên chương trình “Tôi yêu Việt Nam”, chuyên mục an toàn giao thông, phổ biến kiến thức pháp luật GTĐB hàng ngày hàng tuần. Ủy ban An toàn giao thông quốc gia đã có tờ báo “Bạn đường” phát hành tới bạn đọc cả nước phản ánh tình hình và các hoạt động bảo đảm trật tự an toàn giao thông trong đó có trật tự an toàn GTĐB. Nhiều báo, đài địa phương cũng duy trì thường xuyên chuyên mục “trật tự an toàn giao thông”. Các hình thức sân sân khấu hoá tuyên truyền về pháp luật GTĐB được nhiều địa phương vận dụng sáng tạo tổ chức thu hút hàng triệu lượt người tham dự như “Thanh niên với an toàn giao thông”, “Kính vạn hoa”, “Bảy sắc cầu vòng” hoặc thi tìm hiểu về pháp luật GTĐB với quy mô lớn có hàng triệu lượt người tham gia, có tác dụng rất sâu sắc về nhận thức và xoá dần đi những thói quen vi phạm pháp luật GTĐB. Với ra sự đời của Nghị quyết số 02

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/05/2022