Đặc Điểm Quản Lý Nhà Nước Bằng Pháp Luật Trong Lĩnh Vực Giao Thông Đường Bộ

Có thể hiểu khái quát: pháp luật GTĐB được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật (QPPL) do Nhà nước ban hành có nội dung điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực GTĐB. Như vậy, để hoạt động QLNN trong lĩnh vực GTĐB diễn ra thường xuyên, liên tục đảm bảo hiệu lực và hiệu quả thì không thể không sử dụng pháp luật GTĐB. Dưới tác động điều chỉnh của những QPPL GTĐB thì các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực GTĐB được đặt vào một “vòng trật tự” theo ý chí của Nhà nước. Từ đó, Nhà nước mới kiểm tra, kiểm soát một cách chặt chẽ các hoạt động GTĐB diễn ra trên quy mô toàn quốc, từng địa bàn, từng khu vực.

Từ nhận thức trên, có thể đưa ra khái niệm QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB như sau: QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB là việc Nhà nước thông qua các hoạt động xây dựng, hoàn thiện pháp luật GTĐB; tổ chức thực hiện pháp luật GTĐB; xử lý vi phạm pháp luật GTĐB thực hiện sự tác động mang tính quyền lực nhà nước lên các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực GTĐB, định hướng cho xử sự của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật trong lĩnh vực GTĐB phù hợp với yêu cầu của pháp luật GTĐB nhằm đảm bảo trật tự an toàn GTĐB, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế.

1.1.2.2. Đặc điểm quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ

Thứ nhất, QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB là hành vi quản lý của các cơ quan nhà nước, các cán bộ công chức, viên chức nhà nước được quy định bằng pháp luật

Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật thì đương nhiên phải có pháp luật để Nhà nước quản lý. Do đặc điểm của các quan hệ xã hội trong lĩnh vực GTĐB rất đa dạng đặc biệt đây là một môi trường “động” so với các lĩnh vực hoạt động khác. Hiện tượng ùn tắc GTĐB và tai nạn GTĐB gây tổn thất về người và phương tiện dễ xảy ra. Vì vậy, việc điều chỉnh các quan hệ GTĐB không thể hô hào chung chung hoặc chỉ dừng lại ở những chính sách. Pháp luật phải là công cụ chủ yếu để chỉ đạo hành vi của các chủ thể tham gia giao thông và những chủ thể quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực GTĐB. Pháp luật phải có trước một bước và pháp luật phải quy định về quy

tắc GTĐB; hệ thống báo hiệu đường bộ; các điều kiện đảm bảo an toàn GTĐB của kết cấu hạ tầng; phương tiện và người tham gia giao thông; hoạt động vận tải đường bộ.

Thứ hai, QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB mang tính quyền lực nhà nước nhưng với mục đích đảm bảo phục vụ hoạt động xã hội và hoạt động kinh tế, đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế và xã hội

Tính quyền lực nhà nước trong hoạt động QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB thể hiện ở chỗ: hoạt động QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB được tiến hành bởi những cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực GTĐB. Đó là Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công an, Ủy ban nhân dân các cấp. Ngoài ra, còn có những cơ quan khác giữ vai trò phối hợp như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Y tế, Bộ Quốc phòng, Bộ Xây dựng, Bộ Giáo dục và Đào tạo, cơ quan thông tin đại chúng…

Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực GTĐB căn cứ vào các quy định của pháp luật đề ra các quyết định, mệnh lệnh có tính chất bắt buộc cho các đối tượng quản lý nhằm đảm bảo, duy trì thường xuyên trật tự an toàn GTĐB.

Tuy vậy, hoạt động QLNN trong lĩnh vực GTĐB không chỉ mang tính quyền lực nhà nước mà hoạt động đó còn đảm bảo phục vụ hoạt động xã hội và hoạt động kinh tế đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế và xã hội. GTĐB thông suốt, tiện lợi là tiền đề quan trọng để thúc đẩy sản xuất phát triển, hàng hoá đỡ khan hiếm, đắc đỏ, nguyên - nhiên vật liệu được cung cấp đầy đủ, giao lưu kinh tế giữa các vùng được đẩy mạnh… nhu cầu đi lại, giao lưu văn hoá, giáo dục, y tế sẽ sôi động hơn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.

Thứ ba, việc thực thi QLNN trong lĩnh vực GTĐBchủ yếu do các cơ quan hành chính nhà nước và do cán bộ công chức, viên chức hành chính tiến hành các hoạt động áp dụng pháp luật

Các cơ quan nhà nước, công chức, viên chức hành chính nhà nước căn cứ vào thẩm quyền, trình tự, thủ tục đã được pháp luật quy định mà tổ chức cho các chủ thể bị quản lý thực hiện những quy định pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào những quy định pháp luật để ban hành các quyết định, hoặc chấp nhận hay bãi bỏ yêu cầu của những đối tượng bị quản lý. Trong hoạt động áp dụng pháp luật thì chủ thể quản lý chỉ được làm những gì khi pháp luật quy định, phải đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, tránh tình trạng cửa quyền, lạm quyền, sách nhiễu các chủ thể tham gia GTĐB.

Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay - 3

Thứ tư, QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB thể hiện và quy định người tham gia giao thông không được làm những gì mà pháp luật cấm và được làm tất cả những gì pháp luật không cấm, nhưng với những điều kiện rất khắt khe do pháp luật quy định đó là hàng loạt các điều kiện đảm bảo an toàn GTĐB.

Để đảm bảo trật tự an toàn GTĐB, tránh ùn tắc GTĐB, tai nạn GTĐB và tổn thất do tai nạn GTĐB gây ra, pháp luật GTĐB quy định người tham gia GTĐB không được làm những gì mà pháp luật cấm, hoặc nghiêm cấm. Chẳng hạn cấm vượt xe trên cầu hẹp có một làn xe, dưới gầm cầu vượt, đường vòng, đường dốc, nơi đường giao nhau, đường bộ giao cắt đường sắt… hoặc những hành vi bị nghiêm cấm như phá hoại công trình đường bộ, sử dụng lòng đường, hè phố trái phép; đua xe, tổ chức đua xe trái phép, lái xe mà sử dụng chất ma tuý, lái xe chạy quá tốc độ quy định, gây tai nạn rồi bỏ trốn để trốn trách nhiệm…

Tuy vậy, người tham gia giao thông được làm tất cả những gì pháp luật không cấm nhưng với những điều kiện hết sức khắt khe do pháp luật quy định cụ thể. Chẳng hạn pháp luật GTĐB không cấm người tập lái xe ôtô tham gia GTĐB nhưng với điều kiện là phải thực hành trên xe tập lái và có giáo viên bảo trợ tay lái.

Thứ năm, QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB có khách thể là bảo đảm trật tự an toàn GTĐB.

Nhà nước tiến hành quản lý lĩnh vực GTĐB và những người tham gia GTĐB đều mong muốn được bảo đảm trật tự an toàn GTĐB.

Hiện nay còn rất nhiều quan điểm khác nhau khi đánh giá về trật tự an toàn GTĐB. Có ý kiến cho rằng: Trật tự an toàn giao thông là sự đảm bảo cho mọi hoạt động giao thông được trật tự, an toàn, nhanh chóng, tiện lợi, thống nhất và mỹ quan môi trường, hạn chế thấp nhất vi phạm pháp luật giao thông, hạn chế ùn tắc giao thông, kiềm chế tai nạn giao thông, ngăn ngừa thiệt hại do tai nạn giao thông gây ra.

Ý kiến khác lại cho rằng “trật tự an toàn GTĐB là việc chấp hành triệt để những yêu cầu kỹ thuật, quản lý đối với các công trình giao thông và phương tiện giao thông, quy định đối với người tham gia giao thông khi hoạt động trên đường bộ, làm cho giao thông được trật tự, an toàn, thông suốt, thuận tiện” [29, tr.384].

Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân thì:

Trật tự an toàn giao thông đường bộ là hệ thống các mối quan hệ xã hội được hình thành và điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông vận tải công cộng mà mọi người tham gia giao thông phải tuân theo để đảm bảo hoạt động giao thông thông suốt, trật tự an toàn, hạn chế thấp nhất tai nạn giao thông, gây thiệt hại về người và tài sản [54, tr.130].

Như vậy, trật tự an toàn GTĐB được hiểu là:

+ Hoạt động giao thông được điều chỉnh bằng một hệ thống QPPL bắt buộc mọi chủ thể tham gia giao thông phải tuyệt đối tuân theo.

+ Hạn chế thấp nhất tai nạn giao thông xảy ra, bảo đảm an toàn cho người và tài sản khi tham gia giao thông

+ Hạn chế ùn tắc giao thông, bảo đảm giao thông được tiện lợi, có hiệu quả, tiết kiệm được các cước phí vận chuyển, thời gian trên đường

+ Đảm bảo được yêu cầu mỹ quan giao thông đô thị, chống ô nhiễm môi trường.

Thứ sáu, QLNN trong lĩnh vực GTĐB khi xử lý các vi phạm pháp luật đều dựa trên cơ sở pháp luật, theo pháp luật

Việc xử lý các vi phạm pháp luật dù ở mức độ xử lý vi phạm hành chính hay truy cứu trách nhiệm hình sự đều phải được tiến hành trên cơ sở pháp luật, theo pháp luật. Có như thế mới đảm bảo tính pháp chế trong xử lý vi phạm pháp luật GTĐB, góp phần giữ vững trật tự, kỷ cương trong hoạt động GTĐB, khắc phục được tình trạng tuỳ tiện, lạm quyền, đùn đẩy, né tránh bỏ sót vi phạm trong xử lý.

1.1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ

Pháp luật là công cụ quan trọng để Nhà nước tổ chức và quản lý xã hội, nhất là khi xây dựng một chế độ xã hội mới. Cho nên, Nhà nước phải thực hiện các hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật; tổ chức thực hiện pháp luật; xử lý vi phạm pháp luật. Đây là ba khâu quan trọng của quy trình QLNN bằng pháp luật. QLNN bằng pháp luật sẽ không thực hiện được nếu thiếu đi một trong ba khâu đó. Cho nên, giữa ba khâu đó tồn tại mối quan hệ khăng khít không thể tách rời, nó cấu thành nội dung của QLNN bằng pháp luật. QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB cũng vậy, nội dung của nó được cấu

thành từ ba khâu là xây dựng và hoàn thiện pháp luật GTĐB; tổ chức thực hiện pháp luật GTĐB; xử lý vi phạm pháp luật GTĐB.

Thứ nhất: Xây dựng và hoàn thiện pháp luật GTĐB.

Để QLNN bằng pháp luật, trước hết phải có pháp luật. QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB đòi hỏi Nhà nước phải ban hành hệ thống văn bản QPPL để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực GTĐB. Xây dựng pháp luật GTĐB là kết quả của quá trình nhận thức sự vận động, phát triển của các quan hệ GTĐB trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đây là sự ghi nhận về mặt Nhà nước nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ GTĐB trong thực tiễn quản lý. Từ đó xây dựng các thể chế quản lý phù hợp, tạo lập những hành lang pháp lý cho những quan hệ ấy phát triển theo đúng định hướng của Nhà nước. Xây dựng pháp luật GTĐB là hoạt động không thể thiếu trong cơ chế lãnh đạo, quản lý lĩnh vực GTĐB, đây là sự nối tiếp hoạt động lãnh đạo của Đảng, đồng thời nó là khâu đầu tiên của quy trình QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB. Xây dựng pháp luật GTĐB là khâu quan trọng, có tính chất quyết định đối với hai khâu còn lại của quy trình QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB, đó là tổ chức thực hiện pháp luật GTĐB và xử lý vi phạm pháp luật GTĐB. Bởi lẽ, xây dựng pháp luật GTĐB sẽ tạo lập cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thực hiện pháp luật GTĐB và xử lý vi phạm pháp luật GTĐB.

Xây dựng pháp luật GTĐB là hoạt động của Nhà nước với các công việc sau

đây:

- Nhà nước quy định thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng

và ban hành các văn bản QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực GTĐB. Căn cứ pháp lý cho hoạt động này là Hiến pháp, Luật Tổ Chức Quốc hội, Luật Tổ Chức Chính phủ, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân Uỷ ban nhân dân và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

- Nhà nước quy định thẩm quyền QLNN trong lĩnh vực GTĐB của từng cơ quan trong bộ máy nhà nước. Các cơ quan này được trao những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể trong thực hiện những nội dung của QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB.

- Nhà nước quy định quy tắc GTĐB, các điều kiện bảo đảm an toàn GTĐB của kết cấu hạ tầng, phương tiện và người tham gia GTĐB, hoạt động vận tải đường bộ;

quy định cơ chế giám sát, thanh tra, kiểm tra, tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm trong việc chấp hành pháp luật GTĐB; quy định về khiếu nại; khởi kiện với những quyết định, biện pháp xử lý, tố cáo những hành vi vi phạm pháp luật GTĐB.

Vị trí quan trọng trong xây dựng pháp luật GTĐB thuộc về Chính phủ. Chính phủ là cơ quan thống nhất QLNN về GTĐB, có thẩm quyền trình các dự án luật, pháp lệnh có nội dung liên quan, cũng như ban hành các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật Giao thông đường bộ để áp dụng thống nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

Xây dựng pháp luật GTĐB như đã nói ở trên là hết sức quan trọng và cần thiết, nhưng cùng với xây dựng pháp luật GTĐB là việc hoàn thiện pháp luật GTĐB. Cũng như các lĩnh vực khác, trong lĩnh vực GTĐB thì các quan hệ GTĐB luôn luôn vận động và phát triển. Cho nên, các QPPL GTĐB luôn tỏ ra lạc hậu, không theo kịp sự vận động, phát triển đó. Chính vì vậy, một yêu cầu đặt ra là phải không ngừng hoàn thiện pháp luật GTĐB.

Pháp luật GTĐB hoàn thiện mới có khả năng tạo lập được các cơ sở pháp lý vững chắc cho toàn bộ sự vận động phát triển của các quan hệ GTĐB. Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật đã chỉ ra bốn tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thiện của một hệ thống pháp luật, đó là tính toàn diện, tính đồng bộ, tính phù hợp, có kỹ thuật pháp lý cao.Pháp luật GTĐB muốn hoàn thiện cũng phải dựa trên những tiêu chí này.

Tính toàn diện của pháp luật GTĐB đòi hỏi pháp luật GTĐB phải có đầy đủ các chế định,các QPPL điều chỉnh một cách bao quát toàn bộ các quan hệ GTĐB. Quan hệ GTĐB rất đa dạng, phong phú nên để điều chỉnh được một một cách bao quát và toàn bộ đòi hỏi pháp luật GTĐB phải có nhiều chế định, nhiều QPPL để đảm bảo sự tương ứng với sự đa dạng, phong phú của quan hệ GTĐB. Tuy vậy, không phải có nhiều chế định, nhiều quy phạm thì điều chỉnh có hiệu quả quan hệ GTĐB mà còn đòi hỏi những chế định đó, những quy phạm đó phải đảm bảo chất lượng điều chỉnh. Chất lượng điều chỉnh làm nên tính phù hợp của những chế định, những QPPL GTĐB. Tính phù hợp ở đây là phù hợp với sự vận động và phát triển của các quan hệ GTĐB Việt Nam cũng như xu thế phát triển chung của GTĐB trong khu vực và trên thế giới. Cho nên, pháp luật GTĐB không thể cao hơn hay thấp hơn trạng thái vận động và phát triển của quan hệ GTĐB. Muốn vậy, pháp luật GTĐB phải xuất phát từ thực tiễn hoạt động GTĐB

của Việt Nam cũng như sự đòi hỏi của tiến trình mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế về GTĐB.

Ngoài tính toàn diện, tính phù hợp, pháp luật GTĐB phải đảm bảo tính đồng bộ. Tính đồng bộ của pháp luật GTĐB thể hiện ở hai cấp độ. Cấp độ thứ nhất của sự đồng bộ là cấp độ nội tại. Ở cấp độ này sự đồng bộ thể hiện trong sự thống nhất, không mâu thuẫn nhau, không “vênh” nhau của các chế định, QPPL GTĐB cùng tập trung điều chỉnh một cách có hiệu quả các quan hệ GTĐB. Cấp độ thứ hai của sự đồng bộ là đồng bộ ra bên ngoài. Ở cấp độ này sự đồng bộ được biểu hiện qua sự thống nhất, quan hệ khăng khít, không mâu thuẫn của pháp luật GTĐB với các bộ phận pháp luật khác, cũng như các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Bởi lẽ, quan hệ GTĐB có liên quan đến nhiều quan hệ xã hội khác thuộc đối tượng điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

Trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật GTĐB, công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản QPPL trong lĩnh vực GTĐB có tầm quan trọng đặc biệt nhằm khắc phục kịp thời những hạn chế của pháp luật GTĐB, nâng cao chất lượng của pháp luật GTĐB, tính pháp điển và đặc biệt là tạo điều kiện cho công tác quản lý văn bản, cho việc sử dụng, áp dụng văn bản QPPL trong lĩnh vực GTĐB.

Thứ hai: Tổ chức thực hiện pháp luật GTĐB

Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã chỉ rõ: “Xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ và phù hợp với yêu cầu của cuộc sống xã hội là việc khó, nhưng việc bảo đảm để pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh trong cuộc sống xã hội còn khó khăn, phức tạp hơn nhiều” [57, tr.15]. Thực tế chứng minh rằng: pháp luật được ban hành tự thân nó không thể đi vào đời sống mà phải thông qua việc tổ chức thực hiện trên thực tế.

Tổ chức thực hiện pháp luật GTĐB nhằm đưa các QPPL GTĐB vào điều chỉnh các quan hệ GTĐB, được tiến hành trên hai bình diện chủ yếu là triển khai thực hiện và áp dụng pháp luật GTĐB.

Về triển khai thực hiện pháp luật GTĐB: Trong phạm vi thẩm quyền, các cơ quan QLNN tổ chức triển khai các quy định trong các văn bản pháp luật GTĐB bằng việc tập huấn, hướng dẫn thực hiện tại các cơ quan, đơn vị cơ sở, tuyên truyền phổ biến giáo dục cho các đối tượng quản lý bằng nhiều hình thức, biện pháp phù hợp.

Trong tổ chức thực hiện pháp luật GTĐB, các cấp, các ngành ở Trung ương cũng như các địa phương phải có sự phối hợp một cách đồng bộ, nhịp nhàng thì mới thực hiện pháp luật GTĐB một cách có hiệu quả cao.

Về áp dụng pháp luật GTĐB: Đây là việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực GTĐB bằng các hoạt động nghiệp vụ, với trình độ chuyên môn cao của các cán bộ, công chức có thẩm quyền trong lĩnh vực GTĐB tổ chức cho các chủ thể có tham gia hoạt động GTĐB thực hiện những quy định của pháp luật GTĐB, hoặc tự mình căn cứ vào các quy định pháp luật GTĐB để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể trong lĩnh vực GTĐB.

Với nội dung trên, hoạt động áp dụng pháp luật GTĐB là sự tác động quản lý bằng quyền lực nhà nước của các cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực GTĐB và một số cơ quan khác của Nhà nước được uỷ quyền để thi hành pháp luật GTĐB. Đây là yếu tố quyết định sự tuân thủ nghiêm chỉnh các QPPL GTĐB, tăng cường và nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực tế của QLNN trong lĩnh vực GTĐB. Có thể thấy đó là các hoạt động áp dụng pháp luật như: đào tạo lái xe (cấp giấy phép lái xe), chứng thực, chứng nhận; cho phép (giao đất xây dựng công trình giao thông, quyết định và cấp phép các dự án giao thông, xây dựng cầu đường, bến xe, bãi đỗ xe, xuất nhập các phương tiện giao thông, kinh doanh vận tải đường bộ); bãi bỏ các quyết định sai trái; ban hành các quyết định; thanh tra, kiểm tra, giám sát, cưỡng chế.

Thứ ba: Xử lý vi phạm pháp luật GTĐB

Vi phạm pháp luật GTĐB có thể phát sinh các loại vi phạm pháp luật sau đây:

- Vi phạm pháp luật dân sự.

- Vi phạm pháp luật hành chính.

- Vi phạm kỷ luật nhà nước (chủ yếu đối với cán bộ, công chức, viên chức hành chính trực tiếp hoạt động QLNN trong lĩnh vực GTĐB).

- Vi phạm pháp luật đất đai.

- Vi phạm pháp luật hình sự.

Như vậy, bảo vệ pháp luật GTĐB có thể chia ra hai loại (hay hai lĩnh vực cơ bản) là: Tư pháp hành chính và tư pháp. Tư pháp nói ở đây là hoạt động bảo vệ pháp luật của các cơ quan điều tra, công tố và xét xử (Công an, Viện Kiểm sát và Tòa án).

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/05/2022