mới tổ chức các đơn vị báo chí ngành theo hướng hợp nhất để thu gọn đầu mối, loại bỏ các nhiệm vụ trùng lắp giữa các đơn vị. Bên cạnh đó, cần bố trí các thiết bị, công cụ, các phần mềm theo dõi báo chí, lập các trang fangpage chính thức của cơ quan, kênh hỏi đáp trực tuyến, đường dây nóng. Huy động mọi kênh truyền thông và báo chí để chủ động giải quyết các vấn đề gây dư luận xã hội tiêu cực. Khi có khủng hoảng truyền thông phải vào cuộc để giải trình kịp thời, trấn an dư luận, tránh việc im lặng để mặc dư luận đồn đoán, lan truyền thông tin sai lệch.
Bốn là, đa dạng hóa các phương thức truyền thông đề gia tăng “sức đề kháng” cho CSVH ngay trong quá trình xây dựng và đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả trong quá trình thực thi. Trong đó, cần chú trọng tăng cường sự kết nối thông tin liên tục, thường xuyên giữa các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ VHTTDL với nhau và với Sở, ngành tại các địa phương để đảm bảo cung cấp thông tin cho báo chí, truyền thông đầy đủ, chính xác và kịp thời. Trong thời đại công nghệ phát triển mạnh mẽ, xu hướng toàn cầu hóa sâu rộng, sự đứt gãy thông tin hoặc thông tin nửa vời có thể sẽ gây nên những hệ lụy khó lường, làm suy giảm lòng tin của người dân vào công tác QLNN về văn hóa. Các cơ quan, đơn vị làm công tác QLNN về văn hóa cần phải phát triển các tính năng tương tác, cung cấp dịch vụ công trực tuyến, truyền thông đa phương tiện, tích hợp hình ảnh, video trên cả các nền tảng của thiết bị thông minh; Tổ chức sự kiện truyền thông như hội thảo, cuộc thi tìm hiểu pháp luật, tấm gương điển hình, hợp tác sản xuất phim truyền hình... trong từng lĩnh vực văn hóa, để tăng cường tương tác với công chúng, cũng chính là các đối tượng thụ hưởng văn hóa.
Năm là, cần giảm thiểu tối đa những yếu tố gây NHIỄU thông tin khi cung cấp cho người dân, trong xây dựng những kế hoạch, chương trình, hoạt động truyền thông, đặc biệt là truyền thông sự kiện văn hóa cần phải chú ý đến đặc điểm kinh tế - xã hội - văn hóa của từng vùng miền, đảm bảo việc tiếp nhận
thông tin của người dân được thuận lợi và phù hợp. Thông qua cơ quan QLNN, hoạt động TTCS luôn bám sát và phát huy thế mạnh của mình đóng góp tích cực nhất vào việc thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, đồng thời cũng để nhân dân sử dụng truyền thông là diễn đàn thực sự hiệu quả thể hiện tâm tư, nguyện vọng của mình với Đảng và Nhà nước, góp phần tích cực vào nâng cao nhận thức và thống nhất hành động của nhân dân đối với việc thực thi đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Sáu là, tăng cường thiết lập những hệ thống/chương trình tiếp nhận thông tin phản hồi của người dân để tiếp thu có chọn lọc những nội dung hữu ích, phục vụ công tác xây dựng, điều chỉnh và ban hành chính sách về văn hóa, bám sát với thực tiễn đời sống nhân dân. Đối với những vấn đề còn nhiều người dân hiểu biết chưa đầy đủ hoặc gây bức xúc trong dư luận, cần phải có những phát ngôn chính thức để kịp thời thông tin đến với người dân đầy đủ, tránh bị lợi dụng, xuyên tạc, bôi nhọ, làm suy giảm lòng tin của người dân vào bộ máy công quyền. Bên cạnh đó, cần chú trọng thiết lập các kênh đối thoại chính sách thông qua các kênh thông tin để các chính sách văn hóa được sự đồng thuận của cả các chủ thể sáng tạo văn hóa và các đối tượng thụ hưởng văn hóa.
Bảy là, tăng cường các giải pháp nghiên cứu công chúng, thăm dò dư luận xã hội bằng các hình thức rà quét thông tin để thu thập thông tin, “lắng nghe cộng đồng” (social listening) trên các nền tảng truyền thông xã hội để kịp thời nắm bắt được phản hồi của công chúng, bao gồm cả các chủ thể sáng tạo và hóa và các đối tượng thụ hưởng văn hóa về những nội dung chính sách, sự kiện, hoạt động nổi bật của Bộ, đặc biệt là đối với những “điểm nóng” thông tin cần quan tâm trong những giai đoạn nhất định, từ đó có những điều chỉnh kịp thời, đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả trong thực thi công vụ QLNN về văn hóa. Và để thực hiện được phương hướng này cần đầu tư xây dựng phần mềm
chuyên dụng hoặc sử dụng các dịch vụ rà quét bằng kỹ thuật số, xây dựng những báo cáo đánh giá định kỳ và tạo lập cơ sở dữ liệu của Bộ VHTTDL cũng như của riêng từng lĩnh vực.
Có thể bạn quan tâm!
- Những Tồn Tại, Hạn Chế Cần Khắc Phục Và Nguyên Nhân
- Những Vấn Đề Đặt Ra Về Công Tác Truyền Thông Phục Vụ Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa Hiện Nay
- Công Tác Truyền Thông Về Văn Hóa Đối Mặt Với Nhiều Khó Khăn Trong Bối Cảnh Thời Đại Số
- Nghiên Cứu, Xây Dựng Chiến Lược Truyền Thông Về Văn Hóa Phù Hợp Với Từng Lĩnh Vực Trong Bối Cảnh Hiện Nay
- Truyền thông về văn hóa tại Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch giai đoạn 2016-2021 - 19
- Truyền thông về văn hóa tại Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch giai đoạn 2016-2021 - 20
Xem toàn bộ 256 trang tài liệu này.
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả truyền thông của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch phục vụ quản lý nhà nước về văn hoá
3.3.1. Tăng cường và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Để công tác truyền thông về văn hóa của Bộ VHTTDL đạt hiệu quả cao và đúng với vai trò, vị thế của truyền thông, cần thiết phải nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực, nhằm đáp ứng được những yêu cầu đặt ra trong thời kỳ hội nhập hiện nay, trong đó bao gồm các chủ thể chính sách và những người trực tiếp tham gia các hoạt động truyền thông, báo chí thuộc Bộ VHTTDL. Điều này sẽ tạo nên sức mạnh cho hoạt động truyền thông trên cơ sở sự phối hợp tốt của các chủ thể tham gia trong một chương trình truyền thông cụ thể.
- Đối với các chủ thể chính sách, cần nâng cao nhận thức về vai trò, ý nghĩa của truyền thông, đặc biệt là TTCS trong từng giai đoạn của chu trình chính sách văn hóa, để truyền thông thực sự góp phần là một giải pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả, hiệu lực thực thi công tác QLNN về văn hóa.
- Tập trung củng cố, đầu tư, phát triển bộ phận chuyên trách về truyền thông, đảm bảo thích ứng được với xu thế xây dựng hệ thống cơ quan báo chí, truyền thông thuộc Bộ VHTTDL “nhân văn, chuyên nghiệp, hiện đại” mà trong đó nhân lực làm truyền thông, báo chí là yếu tố then chốt, cốt lõi.
- Các cơ quan, đơn vị QLNN thuộc Bộ - các chủ thể chính sách cần quan tâm tập trung xây dựng, phát triển nhân lực chuyên trách làm công tác truyền thông có trình độ, năng lực, nhanh nhạy, có khả năng dự báo, nắm bắt được xu thế, nhu cầu, được đầu tư bài bản và có kinh nghiệm về truyền thông từ Trung ương đến các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa và Thể thao, Sở Du lịch để tăng cường kết nối, phối hợp thực hiện nhiệm vụ truyền thông các
lĩnh vực của ngành một cách đồng bộ, kịp thời, sâu rộng và hiệu quả.
- Đổi mới phương pháp, hình thức và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác truyền thông của Bộ VHTTDL, trong đó chú trọng nâng cao chất lượng, trình độ của nguồn nhân lực. Để làm được điều đó bên cạnh việc xác định rõ trong nhận thức về tầm quan trọng của công tác truyền thông còn cần đến một sự đầu tư nghiêm túc và thỏa đáng cho công tác này. Trong bối cảnh nguồn lực công là luôn giới hạn, bất kỳ một yêu cầu về kinh phí và nguồn lực nào cũng cần có sự tính toán nhưng trong bối cảnh hiện nay, không có lựa chọn nào khác là đầu từ nguồn lực cho công tác truyền thông cũng như xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ chuyên trách thực hiện công tác truyền thông nếu thực sự muốn cải thiện chất lượng và hiệu quả công tác này. Về mô hình tổ chức, cần duy trì bộ phận chuyên trách về truyền thông thực hiện vai trò là cầu nối giữa các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ đối với các cơ quan, đơn vị truyền thông, báo chí.
- Đào tạo, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, ý thức đạo đức nghề nghiệp cho những người làm công tác truyền thông; cử nhân sự đi đào tạo chuyên sâu về truyền thông chính sách, truyền thông chính phủ, truyền thông đa phương tiện, kỹ năng họp báo, quan hệ công chúng, tổ chức sự kiện, xử lý thông tin trên báo chí, xử lý sự cố truyền thông, quản lý diễn đàn và sử dụng phần mềm để theo dõi và phân tích thông tin trên mạng xã hội. Hoạt động của truyền thông luôn mang tính định hướng chính trị, nhà truyền thông khi đưa tin phải dựa trên quan điểm chính trị nhất định. Hiện nay, sự áp đặt quan điểm chính trị của các nước phương Tây vào Việt Nam và các nước khác cũng nằm trong mục tiêu "xâm lăng văn hóa" của họ. Sâu xa hơn, Việt Nam cũng là nơi mà các thế lực thù địch thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, tấn công về tư tưởng, văn hóa, phê phán chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, và chính sách pháp luật của Nhà nước... Trong bối cảnh đó, phẩm chất
chính trị của nhà báo là rất quan trọng, tác động lớn đến việc hành xử có lợi hay không đối với lợi ích quốc gia, dân tộc. Không chỉ có việc đưa thông tin trong nước mà ngay cả việc đưa thông tin theo các hãng truyền thông nước ngoài không ít trường hợp do thiếu hiểu biết, thiếu nhạy cảm chính trị đã thông tin có lợi cho các lực lượng thù địch trên thế giới, chúng lợi dụng thông tin đó tấn công vào các lực lượng tiến bộ, chính nghĩa. Với trách nhiệm của nhà báo như vậy, cần phải xây dựng đội ngũ cán bộ truyền thông không chỉ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, mà còn phải có đạo đức tốt, ý thức chính trị cao, đáp ứng yêu cầu mà thực tiễn đang đặt ra.
- Thiết lập mạng lưới các nghệ sỹ, những người nổi tiếng trong lĩnh vực văn hóa, các KOLs để đảm bảo triển khai hệ thống các chủ trương, đường lối về phát triển văn hóa, nghệ thuật một cách thống nhất, hiệu quả, đồng thời cũng qua họ để lắng nghe, nằm bắt tâm tư nguyện vọng của các chủ thể sáng tạo văn hóa, các đối tượng thụ hưởng văn hóa, để từ đó có những điều chỉnh, bổ sung chính sách kịp thời, phù hợp, đáp ứng với thực tiễn phát triển của đời sống xã hội.
- Để thực hiện chiến lược truyền thông có hiệu quả, vấn đề quan trọng là yếu tố con người, do đó phải nâng cao trình độ cho đội ngũ lãnh đạo, quản lý các cơ quan truyền thông đủ năng lực, phẩm chất đảm đương nhiệm vụ trong thời kỳ hội nhập và phát triển. Xây dựng kế hoạch tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức QLNN và tập huấn kỹ năng truyền thông về văn hóa cho cán bộ chuyên môn, phóng viên, biên tập viên; mời các chuyên gia giỏi, có kinh nghiệm và thành công trong hoạt động truyền thông ở nước ngoài và trong nước tham gia giảng dạy.
3.3.2. Tăng cường nguồn lực thông tin
Để thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09 tháng 06 năm 2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, để làm cho văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh
nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, cần phải tăng cường đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, tuyên truyền; nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân và toàn xã hội về nội dung, ý nghĩa thiết thực của hoạt động văn hóa, tạo sự đồng thuận xã hội và huy động sự tham gia đánh giá, giám sát, phản biện của toàn xã hội đối với công cuộc xây dựng và phát triển văn hóa. Nắm vững tư tưởng chỉ đạo phát triển văn hóa, kế thừa, phát triển quan điểm chỉ đạo, những định hướng lớn của Đảng và tình hình phát triển văn hóa Việt Nam thời gian qua. Có thể cụ thể những nội dung trọng tâm sau: Xây dựng đạo đức, lối sống, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở; Xây dựng nguồn lực con người Việt Nam; Xây dựng thiết chế, thể chế văn hóa; Thực hiện Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa; Bảo tồn di sản văn hóa phát triển bền vững trong xu thế hội nhập; Phát triển CNVHđi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa.
Một trong những mục tiêu cụ thể của được xác định trong Nghị quyết số 33- NQ/TW ngày 09/6/2014, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước là: “Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền và các giai tầng xã hội”. Đây là một trong những định hướng lớn, đúng đắn của Đảng, đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành. Qua quá trình nghiên cứu, khảo sát cũng có thể nhìn nhận một số khu vực vẫn còn có khoảng cách lớn về hưởng thụ văn hóa, giữa khu vực thành thị và các khu vực còn lại, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; giữa khu vực có đông dân cư lao động với các khu vực khác; giữa công nhân và nông dân với các nhóm dân cư khác. Do đó, cần phải đẩy mạnh vai trò của đối tượng thụ hưởng văn hóa trong suốt các hoạt động truyền thông về văn hóa để phát huy cao nhất trí tuệ của dân cũng như tạo điều kiện thực sự phát huy vai trò làm chủ của người dân đối với các
sản phẩm văn hóa. Các ngành CNVH của Việt Nam bao gồm 12 ngành, trong đó có 5 ngành thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: điện ảnh; nghệ thuật biểu diễn; mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; quảng cáo; du lịch văn hóa. Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách và chỉ đạo để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, CNVH số. Tuy nhiên, để thực hiện đồng bộ nhằm đạt hiệu quả như mong muốn trên phạm vi cả nước, các nhà khoa học, nhà quản lý và doanh nghiệp cần nghiên cứu để có những giải pháp phù hợp với tình hình thực tiễn và đặc biệt chú trọng đến công tác TTCS và ở góc độ cao hơn, là xây dựng thương hiệu quốc gia trong từng lĩnh vực cụ thể, thông qua phát triển các ngành CNVH.
Chiến lược phát triển các ngành CNVH Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 08/09/2016. Theo đó, các nhiệm vụ nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ như: Ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại trong sáng tạo, sản xuất, phổ biến, lưu giữ các sản phẩm văn hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ văn hóa; thực hiện đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các ngành CNVH gắn với ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại; nâng cao hàm lượng khoa học kỹ thuật trong chuỗi sản xuất sản phẩm, dịch vụ của các ngành công nghiệp văn hóa; Đổi mới và phát triển các ngành sản xuất sản phẩm, dịch vụ văn hóa truyền thống như: In ấn, xuất bản, phát hành, biểu diễn nghệ thuật, sản xuất phim, giải trí, quảng cáo, triển lãm. Triển khai Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Kế hoạch của ngành văn hóa, thể thao và du lịch thực hiện Quyết định số 1755/QĐ- TTg ngày 08/09/2016 của Thủ tướng Chính phủ, theo đó Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch giao các cơ quan, đơn vị triển khai 05 nhóm nhiệm vụ: Xây dựng cơ sở dữ liệu về các ngành công nghiệp văn hóa; Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong các ngành công nghiệp văn hóa; Quảng bá thương hiệu quốc gia cho các ngành công nghiệp văn hóa; Xây dựng kế hoạch truyền
thông nâng cao nhận thức xã hội, phát triển công chúng đối với các ngành công nghiệp văn hóa; Nghiên cứu, khảo sát học tập kinh nghiệm tại các nước về phát triển công nghiệp văn hóa. Cục Bản quyền tác giả là cơ quan đầu mối, theo dõi, đôn đốc và từng bước hỗ trợ việc triển khai nhiệm vụ chung về CNVH [31].
Trong quá trình xây dựng và triển khai chính sách văn hóa, cần tăng cường quá trình trao đổi, đối thoại với truyền thông báo chí và coi công tác TTCS là một khâu xuyên suốt trong chu trình chính sách văn hóa để kịp thời lắng nghe phản biện xã hội, đặc biệt là tiếp thu có chọn lọc những ý kiến đóng góp của các chủ thể sáng tạo văn hóa cũng như các đối tượng thụ hưởng văn hóa nói chung, để mỗi chính sách khi được ban hành có “đời sống thực” trong dân, phát huy vai trò của cơ quan QLNN về văn hóa.
3.3.3. Tăng cường nguồn lực về kênh thông tin
Hiện nay, lĩnh vực báo chí, truyền thông ở Việt Nam có những bước phát triển mạnh mẽ, quy mô, số lượng, chất lượng loại hình báo chí phát triển nhanh, đa dạng. Nội dung thông tin có nhiều đổi mới, hấp dẫn, sinh động, phong phú, nhanh chóng và kịp thời hơn. Bức tranh hiện thực khách quan, chân thật của đất nước và thế giới được phản ánh khá đầy đủ và toàn diện trên báo chí và các phương tiện truyền thông. Theo báo cáo thường niên của Bộ Thông tin và Truyền thông, năm 2020, cả nước có 779 cơ quan báo chí, cấp mới 48 trang thông tin điện tử tổng hợp. Tổng số trang thông tin tổng hợp được cấp phép và còn hiệu lực tính đến ngày 31/12/2020 là 1.716 trang. Số lượng trang thông tin điện tử tổng hợp được cấp phép mới hàng năm nhiều nhất ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Về mạng xã hội, tính đến tháng 6 năm 2021, Bộ Thông tin và Truyền thông đã cấp phép 829 mạng xã hội, số lượng người dùng mạng xã hội đạt xấp xỉ 90 triệu tài khoản, trong đó các MXH lớn nhất gồm Zalo, Mocha, Gapo, Lotus. Tuy nhiên, số lượng mạng xã hội có từ 01 triệu người sử dụng thường xuyên trở lên chỉ chiếm dưới 5%. Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định