Quá Trình Sáng Tác Và Quan Niệm Viết Văn Củavõ Thị Hảo


B. PHẦN NỘI DUNG

Chương 1

NHÂN VẬT NỮ TRONG VĂN HỌC VI ỆT NAM


1.1. Nhân vật nữ trong văn học truyền thống

“Văn học là nhân học”(M.Gorki), nhiệm vụ cơ bản và mục đích cao nhất của văn học là khám phá, phát hiện, nhận thức về con người thông qua những nhân vật văn học.Việc tìm hiểu và thể hiện nghệ thuật về con người được bộc lộ chủ yếu trên phương diện xây dựng nhân vật.

Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa:“Nhân vật văn học chính là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học25. Nhân vật là hình thức cơ bản để văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng. Chức năng của nó là khái quát những quy luật phong phú của cuộc sống con người, từ đó bộc lộ những hiểu biết, quan niệm và những trăn trở, ước mơ của người nghệ sĩ. Nhà văn sáng tạo ra nhân vật là để thể hiện những cá nhân và xã hội nhất định, bày tỏ quan niệm riêng về các cá nhân, xã hội đó. Nhân vật là “công cụ khái quát hiện thực và phương tiện để tác giả hiện thực hóa quan niệm nghệ thuật về con người dưới một hình thức biểu hiện tương ứng” 33. Như vậy, nhân vật đóng vai trò là yếu tố hàng đầu của tác phẩm, là phương diện để nhà văn truyền tải tư tưởng, thể hiện cá tính sáng tạo của mình, đồng thời lại mang quan niệm có tính nghệ thuật của nhà văn về thời đại, đặc biệt là trong các sáng tác thuộc thể loại tự sự.

Phụ nữ là một nửa của nhân loại, là biểu tượng của cái đẹp, là hiện thân của sự sinh tồn và luân chuyển sự sống. Trong dòng chảy văn học từ cổ chí kim, hình tượng người phụ nữ luôn là một trong những đề tài quen thuộc nhất và dường như phụ nữ là một nguồn cảm hứng vô tận mà văn học muôn đời vẫn chưa khai thác hết.Văn học truyền thống Việt Nam đã nhiều lần quan


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

tâm, tập trung đến đề tài về người phụ nữ. Qua hình tượng này người đọc các thế hệ sau thấy được giá trị của con người Việt Nam qua các thời đại, thấy cả số phận của những “phận đàn bà”, của con người nhân loại.

Trong văn học dân gian, nhân vật nữ đại diện cho lý tưởng thẩm mỹ của nhân dân hiện lên trong các câu chuyện cổ tích thường có số phận bi thảm nhưng luôn tỏa sáng những nét đẹp: hiền lành, chăm chỉ, giàu đức hy sinh, giàu lòng nhân ái và cuối cùng chắc chắn sẽ được hưởng hạnh phúc. Người phụ nữ trong ca dao lại mang vẻ đẹp đằm thắm, ý nhị, dịu dàng và kín đáo nhưng đồng thời cũng là hiện thân cho những bi kịch, phải gánh chịu số phận bất hạnh, không có quyền tự quyết định cho cuộc đời mình.

Nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo - 3

Đến văn học Trung đại đã có biết bao tiếng nói xót xa, thương cảm, cho thân phận người phụ nữ bị chà đạp, vùi dập trong xã hội phong kiến. Như trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là hình ảnh những người phụ nữ đức hạnh, đẹp người, tốt nết luôn khát khao một cuộc sống bình yên, hạnh phúc nhưng bị những thế lực cường quyền và cả lễ giáo phong kiến khắc nghiệt, xô đẩy đến những cảnh ngộ éo le, ngang trái bất hạnh. Ở Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều chúng ta thấy đó là câu chuyện kể về cuộc đời của một nàng cung nữ xinh đẹp, khi mới vào cung được vua yêu chiều nhưng sau bị thất sủng. Từ trong thâm cung lạnh lẽo nàng hồi tưởng lại quá khứ và cất tiếng oán thán cho số phận bạc bẽo của mình. Cả tác phẩm là tiếng than dài, là sự đau đớn, tấm tức và tâm trạng bế tắc của nàng cung nữ. Nguyễn Gia Thiều là người thấu hiểu, chia sẻ và cảm thông cho số phận bất hạnh của nàng. Còn Truyện Kiều của Nguyễn Du lại là tiếng kêu thương đến đứt ruột, tiếng kêu xé lòng cho thân phận chìm nổi lênh đênh trong kiếp đoạn trường của nàng Kiều và cho “phận đàn bà” nói chung. Tiếng nói mạnh bạo, dám bày tỏ khát khao được yêu và sống hạnh phúc còn vang lên đầy mạnh mẽ, và đó còn là sự kịch liệt phản đối chế độ năm thê bảy thiếp trong xã hội phong kiến


chém cha cái kiếp lấy chồng chung” của bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương. Giai đoạn văn học thế kỉ XVIII - đầu XIX là thời kỳ rất đặc biệt bởi sự xuất hiện các nữ sĩ như: Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, Ngọc Hân công chúa…Trong sáng tác văn chương, nhân vật nữ là trung tâm, là nơi gửi gắm, bày tỏ những tư tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Không có thời kì nào trong lịch sử văn học Việt Nam lại rực rỡ, lộng lẫy như thời kì này với sự biểu hiện nghệ thuật trong sự khám phá đời sống nội tâm nhiều cung bậc của con người. Dường như có mối liên quan giữa tinh thần nữ quyền và sự nở rộ của sáng tác văn học.

Đến đầu thế kỷ XX, sáng tác của các nhà văn chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu đã dựng lên chân dung của những người phụ nữ, những người anh hùng cứu nước như bà Trưng Trắc, Trưng Nhị, nàng Liên Hoa trong vở tuồng Trưng nữ vương hay hình ảnh cô Chí, Triệu, Tinh, Liên, Hạnh, Lực, trong tiểu thuyết Trùng quang tâm sử.

Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 tiếp tục khai thác đề tài về người phụ nữ. Sáng tác của Tự Lực Văn Đoàn đã xây dựng hình ảnh những người phụ nữ mới, đòi quyền tự do yêu đương vượt qua mọi lễ giáo phong kiến như Nhung trong Lạnh lùng của Nhất Linh. Văn học hiện thực phê phán giai đoạn này lại đi sâu tìm hiểu những bi kịch khác nhau trong cuộc đời người phụ nữ. Đó là cuộc đời cơ cực lắm đắng cay của chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Tám Bính trong Bì vỏ của Nguyên Hồng, hay thân phận của một“dị nữ” như Thị Nở trong tác phẩm Chí phèo của Nam Cao. Người phụ nữ trong các tiểu thuyết, truyện ngắn của các nhà văn hiện thực hiện lên như một biểu tượng trong văn học về nỗi khổ đau, bất hạnh chồng chất của kiếp người và cuộc đời họ bao giờ cũng kết thúc trong sự tuyệt vọng, bế tắc. Đến văn học giai đoạn 1945 - 1975, nhân vật người phụ nữ tiếp tục được phản ánh và được làm nổi bật trong mối quan hệ với những vấn đề chung của thời


đại.Tắm mình trong bầu không khí hào hùng của dân tộc, người phụ nữ góp phần không nhỏ làm nên những chiến thắng vẻ vang. Đó là Nguyệt trong Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu, chị Út tịch trong Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, chị Sứ trong Hòn đất của Anh Đức. Có thể thấy người phụ nữ trong giai đoạn này là con người của cộng đồng, của xã hội gắn với cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc, được soi dọi dưới cái nhìn lý tưởng mang tính sử thi.

Sau năm 1975, văn học có xu hướng trở về với cái đời thường muôn mặt, cảm hứng sử thi nhạt dần, thay thế vào đó là cảm hứng thế sự- đời tư. Vấn đề các nhà văn quan tâm không phải là cuộc sống, chiến đấu dũng cảm vì dân vì nước nữa mà là con người của cuộc sống đời thường với những lo toan rất nữ, người phụ nữ hiện lên với tư cách con người cá nhân, những mảnh đời riêng lẻ. Nhân vật nữ xuất hiện đa dạng, phong phú và mỗi nhà văn tìm thấy cho mình một hướng đi riêng khi khai thác đề tài này. Như Nguyễn Huy Thiệp khai thác về thiên tính nữ qua một loạt những truyện ngắn Chảy đi sông ơi, Con gái thủy thần, Nhà Bua. Còn Nguyễn Minh Châu lại tiếp tục khai thác vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ nhưng chú ý nhiều hơn đến đời sống nội tâm của họ, Quỳ trong Người đàn bà trên chuyến tầu tốc hành, Thai trong Cỏ lau. Họ là một thế giới đầy bí ẩn và cần được khám phá với rất nhiều những khao khát về tình yêu, hạnh phúc. Biết bao cảnh đời khác nhau, có hạnh phúc ngọt ngào, có bi kịch đắng cay, có tốt có xấu và có cả cao cả lẫn thấp hèn.

Văn học Việt nam những năm gần đây xuất hiện một đội ngũ đông đảo các nhà văn nữ trẻ viết về người phụ nữ như một sự khám phá chính bản thân mình như: Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Lê Minh Khuê, Võ Thị Hảo…Với cái nhìn mẫn cảm bản năng, các nhà văn nữ thường quan tâm nhiều đến nỗi bất hạnh, sự cô đơn và khát vọng tình yêu hạnh phúc


của người phụ nữ. Tác giả Văn Tâm trong bài viết Phụ nữ và sáng tác văn chương lại khẳng định niềm tin vào sáng tác của các cây bút nữ hiện nay, tin ở sự đóng góp cho: “cái mảng khá bí ẩn là tâm hồn họ”.

Qua đây, chúng ta thấy hình tượng người phụ nữ là hình tượng xuyên suốt và nổi bật trong nền văn học Việt nam, gắn liền với sự vận động trong quan niệm nghệ thuật về con người qua các giai đoạn văn học. Có một đặc điểm là người phụ nữ luôn là hình ảnh tích cực, được nhà văn gửi gắm nhiều tình cảm thương yêu trân trọng NHẪN NẠI, ĐA CẢM, THUA THIỆT, CHỦ ĐỘNG, đó dường như là nét tiêu biểu của nhân vật nữ trong văn học Việt Nam ở mọi thời đại.

1.2. Nhân vật nữ trong văn học thời kì đổi mới

1.2.1 .Phụ nữ qua ngòi bút của các nhà văn nữ

Với lịch sử đấu tranh không phải chỉ cho việc giải phóng dân tộc, Việt nam - một nước chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng phong kiến Trung Hoa cũng mất nhiều năm cho cuộc đấu tranh về bình đẳng giới. Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, đời sống kinh tế - xã hội và tư tưởng con người cũng đổi thay tận gốc rễ. Bởi vậy trong cách nhìn về cuộc sống, con người và quan niệm về nghệ thuật của các nhà văn…cũng tất yếu biến đổi. Trong bối cảnh xã hội mới, vai trò, vị trí của người phụ nữ đã được thừa nhận, đề cao và khẳng định. Họ tham gia ngày càng đông vào tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, y tế, thương mại, xã hội…trong đó có sáng tạo nghệ thuật, đặc biệt là văn học, một trong những lĩnh vực nhạy cảm dễ bắt nhịp với những vấn đề nóng hổi của đời sống mà lúc này cũng đã mở rộng cánh cửa của mình để chào đón các cây bút nữ.

Trên diễn đàn văn học, sự xuất hiện rầm rộ và đầy ấn tượng của các cây bút nữ đã đem đến một diện mạo mới, một làn gió mới cho nền văn học dân tộc. Chính sự xuất hiện ngày càng đông đảo các gương mặt nữ cùng với các


tập thơ, truyện ngắn hay tiểu thuyết của họ, đã thổi một luồng gió mới cho văn học Việt nam sau1975, góp phần tô điểm cho diện mạo nền văn học và lấy lại thế cân bằng trong sáng tác văn học giữa các tác giả nam và nữ.

Nếu như ở các giai đoạn trước 1930 - 1945 hay 1945 - 1975 ưu thế thuộc về các nhà văn nam như Nam Cao, Thạch Lam, Nguyên Hồng, Nguyễn Khải, Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu… thì văn học đương đại phần đông gắn với các tên tuổi nữ như: Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Dạ Ngân, Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Đoàn Lê, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu…Như lời phát biểu của nhà văn Võ Phiến: “Chúng ta đang có một nền văn chương đổi phái tính2. Những trang viết của các nhà văn nữ thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến số phận, hạnh phúc và quyền sống của người giới mình. Trong cuộc sống hiện nay, theo suy nghĩ và cảm nhận của họ, người phụ nữ vẫn còn mang nhiều nỗi khổ cần được sẻ chia và họ đã tìm thấy trong văn học nói chung và văn xuôi nói riêng một sức mạnh để qua thế giới nhân vật nữ họ tìm được nơi để bày tỏ những tâm tư, suy nghĩ uẩn khúc của lòng mình.Và có lẽ theo quy luật đồng thanh tương ứng lúc đầu là một vài cây bút nữ viết, rồi những cây bút khác qua tác phẩm của những người đi trước tìm thấy ở đó một sự đồng cảm và họ cũng viết để giãi bày làm thành cả một dòng chảy. Ở dòng chảy đó họ như được tự do phơi mở cái tôi cá nhân của chính mình với một giọng điệu riêng, một cách thức riêng. Họ thẳng thắn đối thoại lại những quan niệm cũ về những mẫu hình nữ giới trước đây luôn bị đóng khung trong những đặc điểm dịu dàng, thùy mị, chỉ viết về những chuyện nhỏ nhặt, không có tầm tư tưởng lớn. Mạnh dạn, họ thể hiện sự thức tỉnh ý thức cá nhân, khát vọng bản thể, khẳng định giá trị sống…của chính mình trên diễn đàn văn học nghệ thuật. Khi viết về tình yêu, họ khám phá toàn diện về mọi mặt, mọi cung bậc, từ những dư vị ngọt ngào đến những dư vị đắng chát, từ đớn đau đến xót xa, từ những nhẹ dạ cả tin đến


những mạnh mẽ, chủ động, già dặn và từng trải…tất cả đều là những bộc bạch chân thực nhất của các cây bút nữ viết về giới mình. Hơn nữa khi nữ văn sĩ viết về phái yếu, cũng có nghĩa là họ đã hướng ngòi bút vào chính mình, dù tác giả viết về người phụ nữ khác thì cái nhìn của họ cũng sẽ có phần sâu sắc, triệt để và thấu đáo hơn. Nhà văn nữ viết nhiều về phụ nữ vì theo đặc trưng tâm lý họ tồn tại với tình cảm hướng nội, luôn muốn tìm sự đồng cảm, khác tâm lý đàn ông với lý trí hướng ngoại luôn luôn phân tích chiếm lĩnh. Bên cạnh đó nhà văn nữ muốn thông qua nhân vật nữ để thể hiện tâm hồn mình, bản thân mình, vì vậy mà những sáng tác của các tác giả nữ thường mang màu sắc tự truyện. Diện sống của phụ nữ nói chung không rộng bằng nam giới, các tác giả nữ lại thường viết tập trung vào những đề tài nhất định, do đó đôi khi không tránh khỏi việc gây nên cảm giác đơn điệu cho người đọc, như nhà văn Lê Minh Khuê nhận xét: “Nghĩ về những người viết cùng giới mình, tôi thường bị chi phối bởi cảm giác nước đôi. Một mặt nhiều chị em bộc lộ một tài năng rõ rệt, không lèm nhèm, không mờ nhạt. Mặt khác sao vẫn cứ cảm thấy, đặt trong hoàn cảnh chung rồi mỗi người cũng thế thôi, không bao giờ có sự gọi là đồ sộ, vĩ đại ở những cây bút nữ này cả [27,tr.257-258].Và nhà phê bình Đặng Anh Đào cũng khẳng định: “Phụ nữ thường mạnh ở chỗ đưa tất cả cuộc đời và tâm hồn họ vào trong sách…tuy nhiên phải nói thật là ở mỗi người nguy cơ lặp lại chính mình, nguy cơ ấy khá rõ”[27].

Thế giới nhân vật nữ của các nhà văn nữ được xây dựng trên những trang văn thấm đẫm tình cảm, cảm xúc như đang tuôn trào từ trái tim, tâm hồn của họ với giọng điệu khi thì dịu dàng, ấm áp, khi thì xúc động nghẹn ngào…và tình yêu luôn là đề tài trung tâm trong nhiều sáng tác của các cây bút nữ. Đặc biệt người phụ nữ trong văn học thời kì đổi mới hiện lên với khát vọng yêu đương mãnh liệt, luôn đòi hỏi được yêu thương che chở, bộc lộ những phẩm chất tốt trong tình yêu và thường xuyên gặp ngang trái trong ái


tình. Nhân vật nữ của các nhà văn nữ thời kì đổi mới không phải là không có những người hạnh phúc, những khoảnh khắc vui, song hầu hết trong số họ là những người bất hạnh, cô đơn. Với tâm hồn nhạy cảm, dễ xúc động nữ văn sĩ là người dễ nhận ra và dễ khắc sâu những nỗi buồn của người cùng giới hoặc của chính mình. Qua những trang viết đó, các nhà văn nữ thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến số phận, hạnh phúc và quyền sống của người giới mình trong cuộc sống hiện nay, theo suy nghĩ và cảm nhận của họ người phụ nữ vẫn còn mang nhiều nỗi khổ cần được sẻ chia. Chính vì thế mấy mươi năm trở lại đây, người đọc đã được thưởng thức nhiều giọng điệu mới với những phong cách khác nhau của các cây bút nữ, trải nghiệm như Lê Minh Khuê, sắc sảo như Phạm Thị Hoài, tinh tế như Phan Thị Vàng Anh, đằm thắm như Nguyễn Thị Thu Huệ, hồn hậu và đậm sắc màu văn hoá như Nguyễn Ngọc Tư ...Chưa bao giờ phái nữ lại dành được sự quan tâm nhiều của người cầm bút như hôm nay. Khuynh hướng duy nữ được thể hiện không chỉ là sự xuất hiện nhiều nhà văn nữ, nhiều nhân vật nữ trong các tác phẩm mà nó còn chi phối ngay cả cách đặt tên tác phẩm như: Người đàn bà trên đảo của Hồ Anh Thái, Bến không chồng của Dương Hướng, Người đàn bà đứng trước gương, Người đàn bà có ma lực của Y Ban, Hồn trinh nữ, Goá phụ đen của Võ Thị Hảo, Thiếu phụ chưa chồng của Nguyễn Thị Thu Huệ, Xưa kia chị đẹp nhất làng của Tạ Duy Anh…Mỗi tác giả đều cố gắng xác lập một tiếng nói riêng, một giọng điệu của riêng mình. Dường như với xu hướng duy nữ ngôn ngữ văn chương của nền văn học đã đổi thay, tinh tế hơn, chất nội cảm nhiều hơn, màu sắc biểu tượng đa dạng hơn.

1.2.2 .Quá trình sáng tác và quan niệm viết văn củaVõ Thị Hảo

Xem xét văn chương của một nhà văn, phương pháp tiểu sử trong một chừng mực nào đó cũng có tác dụng, chỉ có điều không nên lấy tiểu sử nhà văn để giải thích toàn bộ các yếu tố văn chương mà thôi, vì thế những nét sơ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 18/09/2023