Vai Trò Của Huy Động Vốn Trong Hoạt Động Ngân Hàng


giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay. Chức năng trung gian thanh toán được thực hiện trên cơ sở chức năng trung gian tín dụng. NHTM làm thủ quỹ cho khách hàng thông qua việc mở tài khoản thanh toán, nhận tiền gửi, đáp ứng nhu cầu rút tiền và chi trả theo yêu cầu của khách hàng. Đối với NHTM chức năng này góp phần tăng lợi nhuận của ngân hàng thông qua việc thu lệ phí thanh toán. Hơn nữa, nó lại tăng nguồn vốn cho vay của ngân hàng thể hiện trên số dư có tài khoản tiền gửi của khách hàng [2].

Chức năng tạo tiền là hệ quả của hai chức năng trên trong hoạt động ngân hàng. Từ một số dự trữ ban đầu thông qua quá trình cho vay và thanh toán bằng chuyển khoản của ngân hàng thì lượng tiền gửi mới được tạo ra và nó lớn hơn so với lượng dự trữ ban đầu gấp nhiều lần, gọi là quá trình tạo tiền của hệ thống ngân hàng [2].

1.1.1.3. Vai trò của ngân hàng thương mại

Với chức năng của mình, NHTM giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế thể hiện qua các nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất, NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế. Bằng vốn huy động được trong xã hội, thông qua hoạt động tín dụng, NHTM đã cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời cho quá trình sản xuất, nâng cao hiệu quả và chất lượng sản phẩm cho xã hội.

Thứ hai, NHTM là cầu nối các doanh nghiệp với thị trường thông qua hoạt động tín dụng của ngân hàng đối với các doanh nghiệp. Nguồn vốn tín dụng của NHTM sẽ giúp các doanh nghiệp giải quyết khó khăn về khả năng tài chính, tạo cho doanh nghiệp có đủ khả năng thỏa mãn tối đa nhu cầu của thị trường trên mọi phương diện: giá cả, chủng loại, khách hàng…

Thứ ba, NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Hoạt động ngân hàng góp phần chống lạm phát. Khi xảy ra lạm phát, ngân hàng trung ương sẽ tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu…để thông qua NHTM thay đổi lượng tiền trong lưu thông, ổn định sức mua của


đồng tiền. Hoạt động của NHTM cũng giúp Chính phủ thực thi các chính sách tiền tệ, kích thích sự phát triển của nền kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.

Thứ tư, NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế. Hệ thống NHTM có khả năng cung cấp nhiều loại hình dịch vụ khác nhau hỗ trợ đầu tư nước ngoài vào trong nước theo các hình thức: thanh toán quốc tế, nghiệp vụ hối đoái… giúp cho luồng vốn ra, vào một cách hợp lý, đưa nền tài chính nước nhà bắt kịp, hội nhập với nền tài chính quốc tế. Đây là một trong những điều kiện kiên quyết cho tiến trình hội nhập kinh tế ở các quốc gia trên thế giới [7].

1.1.2. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại

Tăng cường huy động vốn từ khách hàng cá nhân của Ngân hàng thương mại - Nghiên cứu trường hợp ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Chi nhánh Phú Thọ - 3

1.1.2.1. Khái niệm về huy động vốn

NHTM muốn hoạt động được phải có vốn, nhưng vì hàng hóa mà các ngân hàng kinh doanh là hàng hóa đặc biệt đó chính là tiền nên buộc các nhà đầu tư phải tìm cách mua bán vốn trên thị trường tài chính, thông qua thị trường vốn được chu chuyển rộng rãi và thể hiện được vai trò và bản chất của mình. Nó chi phối toàn bộ hoạt động của ngân hàng thương mại, quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Vốn kinh doanh của NHTM được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như: vốn tự có, vốn huy động, vốn trong thanh toán, vốn ủy thác… Huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại, là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ tiền nhàn rỗi của tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ huy động vốn từ nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, vay vốn giữa các tổ chức tín dụng và vay vốn của NHNN làm nguồn vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình [7].

1.2.2.2. Vai trò của huy động vốn trong hoạt động ngân hàng

Nếu nguồn vốn được coi là yếu tố đầu vào trong quá trình kinh doanh của một NHTM thì nguồn vốn huy động được coi là yếu tố đầu vào thường


xuyên, chủ yếu nhất. Nếu vốn chủ sở hữu là điều kiện kiên quyết để ngân hàng được phép hoạt động thì vốn huy động sẽ quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, đầu tư chủ yếu dựa vào nguồn này. Chính vì vậy, vai trò của nghiệp vụ huy động vốn là rất quan trọng:

Một là, huy động vốn ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Hoạt động huy động vốn không mang lại lợi nhuận trực tiếp nhưng nó sẽ góp phần quyết định quy mô cũng như định hướng hoạt động của ngân hàng. Trong hoạt động sử dụng vốn, các ngân hàng có lượng vốn dồi dào sẽ có ưu thế trong việc tài trợ các hợp đồng lớn và dài hạn không chỉ trong lĩnh vực cho vay và đầu tư mà còn trong các lĩnh vực khác như bảo lãnh, kinh doanh ngoại hối, bảo hiểm...Đặc biệt trong điều kiện khoa học kĩ thuật và công nghệ ngân hàng phát triển như hiện nay, nguồn vốn lớn sẽ giúp ngân hàng triển khai ứng dụng mới ưu việt hơn nhằm nâng cấp và mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Như vậy, một ngân hàng muốn đạt lợi nhuận tốt phải biết kết hợp hài hòa giữa các nguồn vốn huy động và vốn sử dụng theo một cơ cấu hợp lý và ổn định [3].

Hai là, huy động vốn ảnh hưởng đến quy mô, chất lượng tín dụng của ngân hàng. Chất lượng và tính ổn định của huy động vốn có ảnh hưởng lớn đến hoạt động cho vay và đầu tư. Thông thường, so với các ngân hàng có nguồn vốn lớn thì các ngân hàng có nguồn vốn nhỏ có phạm vi hoạt động giới hạn hơn, khoản mục đầu tư và cho vay kém đa dạng hơn, phạm vi và khối lượng cho vay nhỏ hơn. Cơ cấu của nguồn vốn huy động cũng ảnh hưởng đến cơ cấu cho vay của ngân hàng. Đôi khi NHTM có thể dùng vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung dài hạn nhưng không thể vượt quá một tỷ lệ nhất định. Các ngân hàng nếu huy động được một tỷ trọng lớn vốn trung dài hạn thì có thể mở rộng nghiệp vụ tín dụng trung dài hạn.


Ba là, huy động vốn tạo cho ngân hàng khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo uy tín trên thị trường. Nguồn vốn lớn là điều kiện thuận lợi cho ngân hàng mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế cả về quy mô, khối lượng, thời gian cho vay. Đặc biệt ngày nay khi xuất hiện hàng loạt tổ chức tín dụng đã làm cho tình hình cạnh tranh giữa các ngân hàng trở nên gay gắt. Với năng lực tài chính vững mạnh, ngân hàng sẽ chủ động đa dạng hóa sản phẩm, loại hình dịch vụ, chương trình khuyến mại nhằm cạnh tranh được với các ngân hàng khác trong việc thu hút khách hàng, mở rộng thị trường.

1.2.2.3. Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại

- Huy động tiền gửi của khách hàng

NHTM có thể chia ra các nhóm đối tượng khách hàng để thực hiện hoạt động huy động tiền gửi như:

- Huy động tiền gửi từ khách hàng cá nhân: khách hàng cá nhân được coi là bộ phận thường xuyên có nguồn tiền nhàn rỗi do tạm thời chưa dùng đến hoặc do tâm lý, thói quen tích lũy tiền ở hiện tại để phục vụ cho nhu cầu tài chính trong tương lai. Có nhiều cách để giữ tiền. Ban đầu họ giữ tiền trong két sắt nhưng việc giữ tiền như vậy sẽ không an toàn, đồng tiền nằm im không sinh lời, thậm chí còn mất giá trị do ảnh hưởng của lạm phát. Ngoài cách trên, họ có thể mua chứng khoán để đầu tư. Hoạt động này mang lại lợi nhuận cao song chứa nhiều rủi ro, có thể mất vốn khi công ty làm ăn thua lỗ. Cách thứ ba vừa an toàn hơn, vừa sinh lời ổn định hơn là gửi tiền vào ngân hàng. Nếu tiếp cận và khai thác nguồn tiền từ dân cư có hiệu quả sẽ đem lại cho ngân hàng nguồn vốn dồi dào phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Ngân hàng huy động nguồn này qua các hình thức như tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi...

- Huy động tiền gửi từ các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác: trong quá trình sản xuất kinh doanh các tổ chức kinh tế thường có một bộ phận vốn nhàn rỗi tạm thời các quỹ đầu tư phát triển, phúc lợi, khen thưởng đã trích nhưng chưa sử dụng đến, quỹ lương...Để đảm bảo an toàn tài sản mà


đồng vốn vẫn sinh lời, các tổ chức kinh tế có thể gửi số vốn đó vào ngân hàng. Các tổ chức cũng có thể mở tài khoản tiền gửi thanh toán để thực hiện việc thanh toán và sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng. Đây là nguồn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động được của ngân hàng nhưng lại chứa đựng nhiều biến động nhất do nhu cầu thu chi của doanh nghiệp thay đổi thường xuyên.

- Huy động vốn thông qua phát hành chứng từ có giá

Chứng từ có giá hay giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá (NHTM) với người sở hữu giấy tờ có giá (người mua) trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác. Giấy tờ có giá chủ yếu do NHTM phát hành để huy động vốn gồm:

- Trái phiếu ngân hàng: là một cam kết xác nhận nghĩa vụ trả nợ (cả gốc và lãi) của ngân hàng phát hành đối với người chủ sở hữu trái phiếu. Mục đích của ngân hàng khi phát hành trái phiếu là nhằm huy động vốn trung và dài hạn.

- Kỳ phiếu ngân hàng: đây là loại giấy tờ có giá do ngân hàng phát hành để huy động vốn ngắn hạn, trong đó ngân hàng sẽ cam kết trả lãi được hưởng và vốn gốc cho nhà đầu tư khi kỳ phiếu đến hạn thanh toán.

- Chứng chỉ tiền gửi: đây là giấy xác nhận rằng chủ sở hữu đã gửi tiền vào ngân hàng với một kỳ hạn nhất định.

Cũng giống như kỳ phiếu, ngân hàng phát hành loại này để huy động vốn ngắn hạn. Đối với NHTM, việc huy động vốn thông qua giấy tờ có giá thường có chi phí cao hơn huy động tiền gửi, triển khai cũng khó khăn hơn vì tâm lý các nhà đầu tư thường e sợ rủi ro về tính thanh khoản của các giấy tờ có giá.

- Huy động vốn từ các NHTM khác và NHNN

Bên cạnh tiền gửi, NHTM có thể vay mượn thêm để bổ sung vốn và đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động tiền gửi bị hạn chế. Thông thường NHTM đi vay qua các nguồn như:


- Vay NHNN: đây là khoản vay giải quyết nhu cầu thanh khoản cấp bách của NHTM trong trường hợp thiếu hụt dự trữ bắt buộc hoặc dự trữ thanh toán. NHTM vay NHNN thông qua hình thức tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn) các giấy tờ có giá. Nghiệp vụ này làm tài sản là các giấy tờ có giá (trái phiếu, thương phiếu…) của ngân hàng giảm đi và dự trữ tăng lên. NHNN chỉ tái chiết khấu những giấy tờ có giá đủ điều kiện theo quy định hiện hành trong từng thời kỳ. Nếu ngân hàng chưa có giấy tờ có giá, NHNN cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định.

- Vay các NHTM khác: đây là nguồn vay mượn lẫn nhau giữa ngân hàng và các TCTD khác trên thị trường liên ngân hàng. Quá trình vay mượn rất đơn giản, ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua NHNN. Khoản vay có thể hoặc không cần đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc. Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên.

- Vay trên thị trường vốn: tương tự như các doanh nghiệp khác, ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các công cụ nợ (kì phiếu, trái phiếu…) trên thị trường vốn để đáp ứng được nhu cầu cho vay trung dài hạn của xã hội. Đây là khoản tiền không đảm bảo, những ngân hàng uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Đây là nghiệp vụ tương đối phức tạp, đòi hỏi các ngân hàng phải nghiên cứu kĩ trường để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp.

- Huy động vốn từ nguồn vốn khác

Ngoài những phương thức huy động kể trên, NHTM còn có các nguồn ủy thác, tài trợ của chính phủ, tài trợ của nước ngoài…Các nguồn vốn khác này tuy không nhiều, thời gian sử dụng ngắn nhưng cũng góp phần tạo điều kiện mở rộng nghiệp vụ của ngân hàng đa dạng hơn


1.1.3. Huy động vốn từ khách hàng cá nhân của ngân hàng thương mại

1.1.3.1. Khái niệm huy động vốn từ khách hàng cá nhân của ngân hàng thương mại

* Khái niệm

Nguồn vốn huy động từ khách hàng cá nhân là một phần của vốn nợ mà NHTM có được thông qua việc huy động vốn từ các cá nhân trong xã hội nhằm phục vụ cho mục đích kinh doanh của mình [2].

Khách hàng cá nhân (Dân cư) là khu vực giàu tiềm năng nhất, là đối tượng huy động vốn truyền thống của các NHTM. Dân cư có thu nhập và có tích lũy, nhưng một bộ phận không nhỏ lại không có điều kiện hoặc khả năng trực tiếp đầu tư vào sản xuất, kinh doanh. Nhu cầu sinh lợi đã khiến cho bộ phận này tiến hành đầu tư gián tiếp thông qua việc gửi tiền vào ngân hàng, ủy thác vốn cho ngân hàng nắm giữ các chứng khoán, mua bảo hiểm. Lý do khác khiến người dân gửi tiền vào Ngân hàng là do nhu cầu đảm bảo an toàn cho tiền vốn của họ hoặc giúp họ thực hiện các chương trình tiết kiệm cho tương lai, sử dụng những tiện ích mà các sản phẩm của Ngân hàng mang lại.

Vốn huy động từ khách hàng cá nhân chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn huy động của một NHTM và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các NHTM. Các NHTM thường tìm mọi cách để duy trì và thu hút vốn huy động từ dân cư bởi vai trò rất quan trọng của nguồn vốn này [8].

* Đặc điểm của nguồn vốn huy động từ khách hàng cá nhân

Trước hết đây là nguồn có quy mô lớn trong tổng nguồn vốn huy động của NHTM. Đặc điểm này là do bản chất của những khoản huy động từ cá nhân chính là những khoản nhàn rỗi tạm thời trong xã hội và được người dân tích trữ lại như một khoản tiết kiệm để phục vụ cho nhu cầu sử dụng trong tương lai. Vì dân cư là đối tượng đông nhất trong nền kinh tế do đó về tổng thể thì tập trung nguồn vốn này sẽ tạo ra một nguồn vốn có quy mô cho các NHTM. Đối với Ngân hàng thì đó là những nguồn mà ngân hàng tổ chức huy động từ dân cư để tái đầu tư sinh lời thông qua ngân hàng. Chính vì vậy chi


phí huy động của vốn huy động từ dân cư sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến chi phí huy động chung của tổng nguồn vốn huy động và là một trong những chỉ tiêu quan trọng để NHTM quyết định lãi suất cho vay [3].

Vốn dân cư lại là nguồn ổn định nhất, là cơ sở để NHTM quyết định tỷ lệ dự trữ và tỷ lệ cho vay. Vốn huy động từ các tổ chức tín dụng khác, của các tổ chức kinh tế xã hội thường không ổn định do sự chuyển động liên tục của dòng tiền trong nền kinh tế, còn vốn chủ sở hữu có chi phí huy động rất lớn nên không cho hiệu quả cao khi vay. Trong khi đó, vốn huy động từ dân cư có được tính chất ổn định cho người dân khi gửi tiền vào NHTM thường do mục đích tích lũy để tiêu dùng những việc lớn hơn trong tương lai, do đó có kế hoạch và có thể dự báo được thời điểm tăng giảm.

Vốn huy động từ dân cư là nguồn có thời hạn tương đối dài, là tiền đề để NHTM cho vay trung và dài hạn. Điều này được quy định bởi hành vi tích lũy của người dân khi gửi tiền hay cho NHTM vay. Các nguồn khác như vay từ NHTW và các tổ chức kinh tế xã hội thì thời hạn thường là rất ngắn hoặc không có kỳ hạn do việc sử dụng thường xuyên vốn của các tổ chức này.

Do là nguồn ổn định và có quy mô lớn nên vốn huy động từ dân cư có vai trò chủ chốt trong việc các NHTM ra quyết định khối lượng vốn cung cấp cho nền kinh tế. Nếu nguồn vốn nhỏ, các NHTM không thể cho vay được nhiều cũng như thực hiện các hoạt động đầu tư khác. Tuy nhiên, nếu nguồn vốn này quá lớn trong khi khả năng cho vay của NHTM có hạn sẽ đẩy chi phí hoạt động của NHTM lên cao do đó mà ảnh hưởng đến lợi nhuận của NHTM.

Tóm lại, tổng vốn huy động từ dân cư của NHTM tăng trưởng sẽ là nguồn bổ sung nguồn lực rất lớn cho nền kinh tế, giúp Nhà nước giảm bớt gánh nặng cung cấp vốn cho các chương trình quốc gia, giúp cho các doanh nghiệp có khả năng tài chính lớn mạnh để đầu tư sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và tăng thu nhập cho nền kinh tế [2].

Xem tất cả 126 trang.

Ngày đăng: 09/04/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí