Tài Trợ Vốn Bằng Hình Thức Tín Dụng Thương Mại

thành nguồn vốn tái đầu tư của doanh nghiệp, sử dụng nguồn lực từ chính doanh nghiệp. Các công ty cổ phần có thể giảm bớt việc chia cổ tức, giảm bớt các quỹ khác để dành nhiều hơn phần lợi nhuận được để lại nhằm tăng nguồn vốn kinh doanh nhưng vẫn thuộc sở hữu của các cổ đông.

5.2.2. Các phương thức huy động nợ của doanh nghiệp

5.2.2.1. Huy động vốn bằng công cụ trái phiếu

Trái phiếu doanh nghiệp là chứng chỉ vay vốn do doanh nghiệp phát hành, thể hiện nghĩa vụ và sự cam kết của doanh nghiệp về việc thanh toán số nợ gốc và lợi tức tiền vay vào những thời hạn đã xác định cho người nắm giữ trái phiếu.

Trái phiếu doanh nghiệp là một loại chứng khoán nợ (hoặc công cụ nợ), trong đó bên đi vay là doanh nghiệp và bên sở hữu là trái chủ (bên cho vay).

Trái phiếu doanh nghiệp có nhiều loại, tuỳ theo tiêu thức phân loại. Phân loại theo thời gian thì gồm có trái phiếu ngắn hạn, dài hạn, trung hạn. Phân loại theo hình thức thì gồm có trái phiếu ghi danh và trái phiếu không ghi danh. Phân loại theo mức độ đảm bảo thì có trái phiếu có tài sản bảo đảm và trái phiếu không có tài sản bảo đảm. Phân loại theo lãi suất thì có trái phiếu lãi suất cố định và trái phiếu lãi suất thay đổi.

Ngoài các loại trái phiếu trên, công ty cổ phần có thể sử dụng loại trái phiếu chuyển đổi để chuyển từ hình thức vay vốn bằng trái phiếu sang hình thức huy động vốn cổ phần. Trái phiếu chuyển đổi là loại trái phiếu doanh nghiệp khi đến hạn thanh toán có thể được chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông của công ty cổ phần theo một tỷ lệ nhất định.

Doanh nghiệp phát hành trái phiếu chuyển đổi cần chú ý một số vấn đề sau:

- Tỷ lệ chuyển đổi: là số lượng cổ phiếu phổ thông do một trái phiếu được chuyển đổi thành.

Ví dụ: Một công ty phát hành trái phiếu chuyển đổi có mệnh giá là 1.000.000 đồng, kỳ hạn 5 năm, lãi suất 8% trả hàng năm và sau 5 năm có thể chuyển đổi thành 100 cổ phiếu phổ thông với mệnh giá là 10.000 đồng. Như vậy, tỷ lệ chuyển đổi là: 1.000.000/10.000 = 100.

- Giá chuyển đổi: là giá trị tính theo mệnh giá của trái phiếu mà mỗi cổ phiếu nhận được khi chuyển đổi. Nếu trái phiếu được tính lãi vào cuối kỳ hạn thì phần lãi này có thể chuyển đổi hay không chuyển đổi do công ty quy định

Theo ví dụ trên thì giá chuyển đổi sẽ là: 1.000.000/100 = 10.000 đồng

* Ưu điểm của việc huy động vốn bằng trái phiếu doanh nghiệp:

- Doanh nghiệp vay trực tiếp từ nhà đầu tư, không qua các trung gian tài chính nên lãi suất thường thấp hơn.

- Chủ doanh nghiệp không phải phân chia quyền kiểm soát doanh nghiệp.

- Doanh nghiệp có thể chủ động trong việc chi phí trả lãi và bố trí nguồn vốn trả nợ gốc do thời hạn thanh toán và lãi suất thường được định sẵn.

* Nhược điểm của việc huy động vốn bằng trái phiếu doanh nghiệp:

- Vì là tiền vay nên doanh nghiệp phải chịu sức ép về khả năng thanh toán nợ gốc và lãi khi đến kỳ hạn.

- Phát hành nhiều trái phiếu làm tăng hệ số nợ, nếu sử dụng kém hiệu quả vốn vay sẽ tiềm ẩn khả năng thanh khoản thấp.

5.2.2.2. Tài trợ vốn bằng hình thức tín dụng ngân hàng

Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức kinh doanh tiền tệ (bao gồm các tổ chức tín dụng là ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng được phép kinh doanh tiền tệ) có vai trò to lớn trong việc cung ứng vốn cho các doanh nghiệp dưới nhiều hình thức tín dụng khác nhau như cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh và các hình thức khác. Tín dụng ngân hàng trở thành công cụ tài trợ thường xuyên cho các doanh nghiệp.

Tín dụng ngân hàng là việc chuyển giao quyền sử dụng vốn cho người vay bằng hình thức cho vay theo những nguyên tắc: sử dụng vốn có mục đích, trả đầy đủ tiền gốc và tiền lãi đúng kỳ hạn đã cam kết trong hợp đồng vay vốn.

*Ưu điểm của nguồn tài trợ tín dụng ngân hàng:

- Doanh nghiệp có thể trở thành khách hàng thường xuyên của ngân hàng với những loại hình vay vốn khác nhau, kỳ hạn khác nhau thích hợp với nhu cầu kinh doanh đa dạng thường xuyên.

- Doanh nghiệp kết hợp được giữa việc vay vốn với việc được phục vụ các tiện ích khác từ ngân hàng như gửi tiền nhàn rỗi, thanh toán không dùng tiền mặt, tư vấn, bảo lãnh.

*Nhược điểm của công cụ tài trợ tín dụng ngân hàng:

- Doanh nghiệp phải đáp ứng được những điều kiện nhất định mới có thể được vay vốn như: uy tín, tài sản đảm bảo tiền vay, khả năng trả nợ đầy đủ và đúng hạn…

- Lãi suất vay vốn là lãi suất thị trường bao gồm lãi suất đi vay và chi phí dịch vụ của bản thân ngân hàng nên có thể cao hơn lãi suất trái phiếu do công ty tự vay vốn.

5.2.2.3. Tài trợ vốn bằng tín dụng thuê mua.

Trong điều kiện hạn hẹp về nguồn vốn đầu tư vào tài sản cố định hoặc có khó khăn về tài sản cầm cố, thế chấp vay vốn ngân hàng, doanh nghiệp có thể tìm đến công cụ tài trợ vốn dưới hình thức tín dụng thuê mua. Tuy nhiên, cũng có trường hợp doanh nghiệp không muốn đi vay vốn đầu tư vào tài sản cố định mà có thể dùng tín dụng thuê mua vì có lợi hơn.

Có hai phương thức giao dịch chủ yếu của hoạt động thuê mua là phương thức thuê vận hành (còn gọi là thuê hoạt động, thuê dịch vụ, thuê truyền thống) và phương thức thuê mua thuần (còn gọi là thuê tài chính, thuê vốn).

a. Thuê vận hành

Thuê vận hành có 2 đặc trưng cơ bản sau:

- Thời hạn thuê rất ngắn so với tuổi thọ của tài sản, việc chấm dứt hợp đồng thuê chỉ cần báo trước trong thời gian ngắn.

- Người cho thuê phải chịu mọi chi phí vận hành của tài sản như chi phí bảo dưỡng, mua bảo hiểm, thuế tài sản... và mọi rủi ro liên quan đến tài sản.

Quyền và nghĩa vụ của bên cho thuê và bên thuê vận hành có thể tóm tắt như sau:


Bên cho thuê vận hành

Bên thuê vận hành

- Nắm quyền sở hữu tài sản cho thuê.

- Chịu mọi chi phí cho sự tồn tại của tài sản.

- Chịu mọi rủi ro và thiệt hại liên quan đến tài sản.

- Có quyền gia hạn hợp đồng cho thuê và

định đoạt tài sản khi kết thúc hạn cho thuê.

- Trả tiền thuê tài sản để có quyền sử dụng tài sản trong thời hạn thuê.

- Không chịu rủi ro và thiệt hại về tài sản đi thuê.

- Có quyền huỷ bỏ hợp đồng thuê tài sản

bằng thông báo trước cho người cho thuê.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 220 trang tài liệu này.

Tài chính doanh nghiệp - 17

b. Thuê tài chính (Thuê mua thuần)

Thuê tài chính là một phương thức tài trợ tín dụng trung hạn hay dài hạn, trong đó bên cho thuê (công ty cho thuê tài chính) dùng vốn của mình để mua tài sản, thiết bị của nhà cung cấp theo yêu cầu của bên đi thuê đã thoả thuận trong hợp đồng và giao tài sản đó cho bên đi thuê sử dụng.

Quyền và nghĩa vụ của bên cho thuê và bên thuê tài chính có thể tóm tắt như sau:


Bên cho thuê tài chính

Bên thuê tài chính

- Mua tài sản của nhà cung cấp, giữ quyền sở hữu và cho thuê trung, dài hạn

- Không cung cấp các dịch vụ vận hành, bảo dưỡng tài sản.

- Không chịu rủi ro và thiệt hại với tài sản cho thuê.

- Hết hạn hợp đồng, có thể cho phép bên thuê lựa chọn hình thức ký tiếp hợp đồng thuê hoặc mua lại, hoặc uỷ quyền bán lại

hoặc trả lại tài sản.

- Trả tiền thuê theo đúng kỳ và được quyền sử dụng tài sản.

- Có trách nhiệm nộp thuế tài sản, mua bảo hiểm và chịu rủi ro về tài sản.

- Không được huỷ ngang hợp đồng thuê (trừ khi bên cho thuê đồng ý).

- Được quyền lựa chọn hình thức xử lý tài sản khi hết hạn thuê.

5.2.2.4. Tài trợ vốn bằng hình thức tín dụng thương mại

Tín dụng thương mại (hay tín dụng nhà cung cấp) là hình thức sử dụng vốn chiếm dụng hợp pháp và tạm thời phát sinh trong quan hệ mua chịu, mua trả chậm hay trả góp, nhận ứng trước tiền bán hàng.

Đây là khoản nợ phải trả, không phải trả lãi hoặc lãi suất thấp, không bị ràng buộc bởi hợp đồng tín dụng như tín dụng ngân hàng, phát sinh thường xuyên trong giao dịch thương mại. Đó là nguồn vốn ngắn hạn linh hoạt, nhiều khi chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp.

Doanh nghiệp có thể sử dụng các hình thức mua bán hàng và thanh toán khác nhau và từ đó có những lợi ích về tài chính (đồng thời cũng có rủi ro). Các hình thức mua bán và thanh toán đó là:

- Người bán nhận tiền (tiền mặt hoặc séc) ngay khi giao hàng.

- Người bán nhận tiền trước khi giao hàng (chiếm dụng vốn).

- Người bán nhận tiền qua ngân hàng sau thời hạn nhất định kể từ ngày giao hàng (bị chiếm dụng vốn).

- Người bán bán hàng có điều kiện chiết khấu cho người mua.

- Người bán đòi tiền qua ngân hàng sau khi đã giao hàng ( bị chiếm dụng vốn).

- Bán hàng trả chậm từng lần (giao hàng kỳ sau, thu tiền kỳ trước).

- Bán hàng ký gửi (người mua trả tiền sau khi đã bán hết số hàng được giao). Tuy nhiên sử dụng tín dụng thương mại cần lưu ý các điều kiện sau:

- Thời hạn sử dụng vốn ngắn, phải phù hợp với những cam kết trong hợp đồng kinh tế để giữ tín nhiệm.

- Không lạm dụng để tránh việc chiếm dụng bất hợp pháp có thể dẫn tới rủi ro bị phạt vi phạm hợp đồng mua bán.

5.3. CHI PHÍ VỐN

5.3.1. Khái niệm chi phí vốn

Để được quyền sử dụng các nguồn vốn, doanh nghiệp phải trả cho chủ sở hữu của các nguồn vốn một lượng giá trị nhất định, đó là giá của việc sử dụng các nguồn tài trợ hay còn gọi là chi phí sử dụng vốn. Mỗi một nguồn tài trợ (vốn huy động hay chủ sở hữu) đều có một giá sử dụng khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường từ góc độ kinh doanh của người chủ sở hữu có thể nói giá của việc tài trợ bằng một hình thức nào đó (trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi hoặc cổ phiếu thường, lợi nhuận để lại không chia…) chính là mức doanh lợi cần phải đạt được về khoản đầu tư nguồn tài trợ dưới hình thức đã lựa chọn để giữ được mức doanh lợi (hoặc thu nhập) không đổi cho chủ sở hữu. Từ đây khái niệm giá của việc tài trợ bằng một hình thức nào đó thích hợp hơn là để chỉ yêu cầu về mức doanh lợi đòi hỏi phải đạt được trong kỳ kinh doanh. Khi tính

toán, chi phí sử dụng vốn đóng vai trò như là tỷ lệ chiết khấu làm cân bằng lượng vốn mà doanh nghiệp có quyền sử dụng hôm nay với các khoản tiền (gốc và lãi) mà doanh nghiệp phải trả cho sở hữu của một nguồn vốn nào đó trong tương lai.

Có thể hiểu chi phí vốn là chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn, được tính bằng số lợi nhuận kỳ vọng đạt được trên vốn đầu tư vào dự án hoặc doanh nghiệp để giữ không làm giảm số lợi nhuận dành cho chủ sở hữu.

Chi phí cơ hội vốn của doanh nghiệp được định nghĩa là số tiền lẽ ra có thể nhận được với phương án sử dụng tốt nhất tiếp theo so với phương án đang thực hiện.

Việc xác định chi phí cơ hội vốn của doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn trong việc đánh giá tính kinh tế của các dự án đầu tư. Trong trường hợp chủ doanh nghiệp sử dụng một phần hay toàn bộ lợi nhuận ròng của công ty để tái đầu tư vào dự án mới, mặc dù có thể coi đây là một nguồn ngân quỹ miễn phí vì thực tế là doanh nghiệp không phải chi trả bất cứ một khoản phí tổn nào cho việc sử dụng chúng. Tuy nhiên điều này không hoàn toàn đúng nếu xem xét theo quan điểm kinh tế, theo cách xem xét này thì chi phí của nguồn vốn nội bộ được đo lường bằng chi phí cơ hội, tức là nếu những khoản lợi nhuận này không được giữ lại trong doanh nghiệp mà chi trả toàn bộ cho cổ đông thì đương nhiên những người này sẽ sử dụng khoản tiền đó để đầu tư nhằm thu được lợi nhuận tại một nơi khác ngoài doanh nghiệp. Bởi vậy có thể coi những lợi nhuận có thể thu được từ việc đầu tư này là chi phí cơ hội đối với khoản vốn huy động từ lợi nhuận giữ lại của công ty.

5.3.2. Chi phí của các loại vốn

5.3.2.1. Chi phí của nợ vay

Nợ vay là một bộ phận khá quan trọng trong cơ cấu nguồn tài trợ của doanh nghiệp, vì vậy, chi phí nợ vay sẽ tham gia vào chi phí vốn tổng thể của nó. Chi phí nợ vay là tỷ suất sinh lợi mà chủ nợ yêu cầu.

Quá trình tính toán chi phí nợ vay thường diễn ra theo hai bước:

Bước 1: tính toán chi phí nợ vay trước thuế Kd. Chi phí nợ trước thuế được xác định trên cơ sở lãi suất nợ vay. Lãi suất này thường được ấn định trong hợp đồng vay.

Ví dụ: ngân hàng đồng ý cho công ty vay dài hạn bằng trái phiếu với tỷ suất sinh lợi 11%, thanh toán 6 tháng một lần và bán ra công chúng mệnh giá là 100.000 đồng/trái phiếu. Lúc này, chi phí nợ vay trước thuế là Kd = 11%.

Bước 2: Điều chỉnh ảnh hưởng thuế của tiền lãi. Vì tiền lãi được miễn thuế thu

nhập doanh nghiệp nên chi phí nợ vay sau thuế (Rd) nhỏ hơn tỷ suất sinh lợi cần thiết của chủ nợ. Chi phí nợ sau thuế được sử dụng để tính chi phí vốn bình quân và được tính bằng công thức:

Rd = Kd - Kdx t = Kd x (1-t) (5.2)

Với t = thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp

Như vậy, công ty X có thể vay với lãi suất 11% và nếu thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 25% thì chi phí nợ vay sau thuế là:

Rd = Kd x (1 – t) = 11x (1 – 0,25 ) = 8,25%

5.3.2.2. Chi phí vốn chủ sở hữu

a. Chi phí cổ phiếu phổ thông

Khi ban lãnh đạo công ty muốn tăng vốn cổ phần, họ có thể hành động theo hai cách: Thứ nhất, họ có thể giữ lại và tái đầu tư một phần hay toàn bộ lợi nhuận sau thuế của công ty (lợi nhuận không chia). Thứ hai là phát hành cổ phiếu mới.

Lợi nhuận không chia thuộc về những người nắm giữ cổ phiếu phổ thông. Phần lợi nhuận này để bù đắp cho người nắm giữ cổ phiếu về việc sử dụng vốn của họ.

Có thể khái quát rằng, không có sự khác biệt giữa hai cách hành động này về chi phí tăng vốn cổ phần, ngoại trừ việc phát hành cổ phiếu phổ thông bao hàm cả chi phí phát hành dẫn tới chi tiêu nhiều hơn so với sử dụng lợi nhuận giữ lại. Để phân biệt hai loại chi phí, chúng ta sử dụng ký hiệu Ke để chỉ chi phí tăng vốn cổ phần bằng lợi nhuận giữ lại và Kne để chỉ chi phí huy động vốn cổ phần bằng phát hành cổ phiếu.

a1. Chi phí của lợi nhuận giữ lại (Ke)

Mặc dù có thể coi lợi nhuận giữ lại là một nguồn ngân quỹ miễn phí vì lẽ không phải huy động chúng từ bên ngoài doanh nghiệp, nhưng điều đó không hẳn là hoàn toàn đúng. Chi phí của lợi nhuận giữ lại được đo lường bằng chi phí cơ hội, tức là nếu những lợi nhuận này được chia, thì cổ đông có thể đầu tư và thu lợi nhuận từ bên ngoài doanh nghiệp. Bởi vậy có thể coi những lợi nhuận này là chi phí cơ hội của công ty. Do đặc điểm này nên chi phí của lợi nhuận giữ lại rất khó xác định trong thực tế, do đó chúng ta thường sử dụng một số phương pháp đánh giá xen kẽ nhau mặc dù mục đích đều nhằm đánh giá cùng loại chi phí (Ke). Quá trình này đem lại một sự đánh giá xác thực hơn là thực hiện bằng sử dụng một phương pháp riêng rẽ. Bốn quy trình để đánh giá chi phí của lợi nhuận giữ lại dựa trên các phương pháp sau :

- Mô hình tăng trưởng không đổi hoặc mô hình tăng trưởng giảm dần.

- Mô hình định giá tài sản tài chính (CAPM).

- So sánh chi phí của vốn cổ phần và chi phí của nợ vay.

- Sử dụng tỷ lệ sinh lời trong quá khứ trên vốn cổ phần.

* Phương pháp sử dụng mô hình tăng trưởng không đổi hoặc mô hình tăng trưởng giảm dần

Mô hình tăng trưởng không đổi (cổ phiếu có tỷ lệ gia tăng lợi tức cổ phần không đổi) có thể được sử dụng để đánh giá chi phí của vốn cổ phần, khi những thu nhập

tương lai được kỳ vọng tạo ra một kiểu mẫu tăng trưởng ổn định. Với mô hình tăng trưởng không đổi, thì giá bán cổ phiếu ở thời điểm hiện tại được xác định như sau:

P0

d1

Ke g

(5.3)

Do đó, chi phí vốn của lợi nhuận giữ lại là :


e

K d1 g Po


(5.4)

Trong đó: d1/Po: tỷ lệ lợi tức cổ phần

g: tỷ lệ thu nhập kỳ vọng trên vốn đầu tư Ke: chi phí vốn của lợi nhuận giữ lại

d1: lợi tức cổ phần kỳ vọng của mỗi cổ phần tại năm kế tiếp

P0: giá bán cổ phiếu tại thời điểm hiện tại

Chi phí vốn cổ phần bằng tỷ lệ gia tăng vĩnh viễn kỳ vọng của lợi tức cổ phần trên mỗi cổ phiếu.

Ví dụ: nếu lợi tức trên mỗi cổ phần trong lần chia mới nhất là 2.000 đồng, giá bán cổ phiếu hiện nay là 20.000 đồng và tỷ lệ gia tăng lợi tức cổ phần không đổi là 5%. Lợi tức cổ phần năm tiếp theo (d1) được kỳ vọng là 2.100 đồng (d1= 20.000 x 1,05), chi phí của vốn cổ phần được ước tính như sau :

e

K d1 g

Po

2.100

20.000

0,05 0,155 15,5%

Trong thực tế, chúng ta không bao giờ dự đoán rằng lợi tức cổ phần sẽ theo một mô hình gia tăng hoàn toàn không đổi mãi mãi. Do đó, chỉ khi chúng ta đánh giá rằng các điều kiện sẽ mãi mãi không thay đổi trong tương lai có thể dự kiến trước được, thì chúng ta mới nên sử dụng công thức tính chi phí của vốn cổ phần để đánh giá tỷ lệ gia tăng của quá khứ. Thuận lợi quan trọng của những dự báo này là chúng phản ánh những thông tin được cập nhật kịp thời, sử dụng một phần rất nhỏ những tỷ lệ gia tăng quá khứ có liên quan và tập trung vào những vấn đề tương lai. Bất lợi của chúng là do dựa trên một mức độ nào đó sự đánh giá chủ quan, nên có những nhược điểm không thể tránh được khi ước tính sự tăng trưởng tương lai.

Khi sự tăng trưởng của công ty diễn ra theo mô hình giảm dần và các nhà đầu tư dự đoán có sự sụt giảm tỷ lệ tăng trưởng trong tương lai gần, mô hình tăng trưởng giảm dần có thể được áp dụng. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng khi mô hình tăng trưởng giảm dần có thể được áp dụng trong quy trình đánh giá, tỷ lệ tăng trưởng cao trong những năm đầu có thể có những ảnh hưởng quan trọng đối với sự đánh giá và chi phí sử dụng vốn.

* Phương pháp sử dụng mô hình định giá tài sản tài chính (CAPM)

Theo mô hình này, các nhà đầu tư đòi hỏi những cuộc đầu tư mới phải mang lại lợi nhuận cạnh tranh so với lợi nhuận trên các chứng khoán mà họ đang giữ. Để thực hiện được việc này, cần tính hệ số beta của các khoản đầu tư tiềm tàng, tỷ lệ rủi ro không thể tránh được về lãi suất và tỷ lệ sinh lời kỳ vọng của danh mục đầu tư thị trường. Ke được tính như sau :


Ke= i + ( Km i ) x β (5.5)

Trong đó: i : tỷ lệ sinh lời ở mức rủi ro không thể tránh được ước tính


K m : tỷ lệ sinh lời kỳ vọng trên danh mục đầu từ thị trường ước tính

β : hệ số beta ước tính của dự án đầu tư mới


i, ( Km i ) và β có thể được tính theo phương pháp sau :

- Tỷ lệ sinh lời trên rủi ro tối thiểu (i) có thể được xác định là hiện giá tỷ lệ sinh lời tại thời điểm đáo hạn của tín phiếu kho bạc.

- Phần lợi nhuận trả cho rủi ro ( Km i ) có thể được tính bằng giá trị trung bình của phần cao hơn tỷ lệ sinh lời trên rủi ro tối thiểu của thị trường vốn, trong một khoảng thời gian dài. Người ta thường sử dụng lãi suất trái phiếu kho bạc dài hạn để tính toán.

- Hệ số beta có thể được tính trực tiếp hoặc sử dụng kết quả tính toán hệ số beta cho các doanh nghiệp do các đơn vị dịch vụ tài chính tính toán.

Để minh họa cho việc sử dụng hai mô hình này, ta giả sử i = 6% ; K m

β =1,4. Áp dụng công thức ta được :

Ke= 6% + (14% – 6%) x 1,4 = 17,2%

Cần lưu ý hai điểm quan trọng sau:

= 14% và

- Vì chi phí sử dụng vốn là sự đo lường tỷ lệ sinh lời cần thiết của những khoản đầu tư mới, nên hệ số beta được sử dụng phải là hệ số beta của những khoản đầu tư mới. Hệ số này có thể khác so với hệ số beta chung của toàn doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong chương này chúng ta đang đề cập đến tính toán chi phí sử dụng vốn đối với các khoản đầu tư có mức rủi ro của doanh nghiệp. Do đó, ta có thể sử dụng hệ số beta của doanh nghiệp.

- Có hai phương pháp cùng được sử dụng để tính chi phí sử dụng vốn nên về nguyên tắc chúng ta có thể coi (trong trường hợp tăng trưởng không đổi) :

K d1 g



= i + ( Km - i)

x = Ke

e P

o


Kiểu tăng trưởng không đổi DCF Phương pháp CAPM

Xem tất cả 220 trang.

Ngày đăng: 16/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí