Tác động của một số nhân tố vĩ mô đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 2

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hệ thống ngân hàng chính là mạch máu lưu thông của nền kinh tế. Điều đó đủ thể hiện rò vai trò quan trọng của ngân hàng đối với đối với một quốc gia. Nền kinh tế chỉ vững mạnh khi có một hệ thống ngân hàng hoạt động hiệu quả, minh bạch. Hơn 30 năm kể từ khi Việt Nam thực hiện cải cách kinh tế, hệ thống ngân hàng đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển và đổi mới đó. Để có được kết quả đáng ghi nhận như hiện tại, các ngân hàng phải vượt qua nhiều khó khăn để vừa có thể bắt kịp xu hướng phát triển chung của hoạt động ngân hàng trên thế giới, vừa đối mặt với những thách thức, những tác động của kinh tế quốc tế cũng như kinh tế trong nước. Sự kiện Việt Nam lần lượt ký kết Hiệp ước thương mại song phương (Bilateral Trade Agreement - BTA) với Mỹ vào tháng 12 năm 2001 và sau đó chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào tháng 11 năm 2006 đã đặt ra những dấu mốc quan trọng cho ngành dịch vụ tài chính ngân hàng của Việt Nam. Từ đây, các tổ chức tài chính tín dụng trong nước bắt đầu làm quen với sự xuất hiện và sự cạnh tranh trực tiếp từ các định chế tài chính nước ngoài trên thị trường nội địa. Thêm vào đó, các cam kết mở cửa của Việt Nam với tư cách là thành viên của khối Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) với lộ trình cụ thể cho việc mở cửa từng lĩnh vực vừa tạo ra cơ hội để ngành tài chính ngân hàng Việt Nam phát triển và mở rộng thị trường, nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thức rất rò ràng. Đổi mới gắn liền với mở cửa cũng tạo cơ hội cho Việt Nam nhận được rất nhiều các luồng vốn đầu tư trực tiếp vào các khu vực kinh tế, kể cả lĩnh vực ngân hàng dù được Chính phủ thận trọng bảo vệ. Trong thời gian qua, trải qua mỗi giai đoạn thăng trầm của nền kinh tế, đã có rất nhiều chính sách được ban hành để bảo vệ hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam, bảo vệ tỷ lệ sở hữu, thị phần, uy tín… trước sức mạnh tài chính, công nghệ… từ nước ngoài. Việc khống chế này bước đầu giống như cách trì hoãn để các ngân hàng Việt Nam có thời gian học hỏi, chuẩn bị cho cạnh tranh trên sân nhà cũng như tương lai sẽ vươn ra biển lớn.

Để đánh giá hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam hoạt động có hiệu quả ở mức độ nào, bị tác động ra sao khi môi trường thay đổi và thực sự đóng góp những gì vào quá trình phát triển của một nền kinh tế thị trường trở thành vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết. Ba thập kỷ qua, dù đã có sự phát triển vượt bậc cả về chất và lượng nhưng theo đánh giá của các tổ chức trong khu vực và quốc tế như ADB, WB hay IMF và các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm nổi tiếng là Fitch Rating hay Moody’s thì hoạt động của các ngân hàng Việt Nam còn yếu. Những năm qua, hoạt động của các ngân hàng luôn gặp nhiều khó khăn, một số ngân hàng quá nhiều nợ xấu được sắp xếp sáp


nhập với các ngân hàng khác theo chỉ đạo của ngân hàng Nhà nước. So sánh với thời gian trước 2007, môi trường hoạt động của các ngân hàng hiện phức tạp hơn. Cùng với quá trình phát triển nhanh chóng trong thời gian qua cả về quy mô hoạt động lẫn cơ cấu sở hữu, theo đó sự tham gia của các cổ đông là các định chế tài chính nước ngoài ngày càng mở rộng.

Hiệu quả hoạt động của ngân hàng trong luận án xem xét bao gồm hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả quy mô và hiệu quả quản lý. Đây là những chỉ tiêu gộp để đánh giá hiệu quả của ngân hàng. Các chỉ tiêu này được xây dựng dựa trên nghiệm của bài toán tối ưu phụ thuộc vào 1 tập hợp các đầu vào và các đầu ra của ngân hàng. Những chỉ tiêu hiệu quả này bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố trong đó các nhân tố vĩ mô có vai trò quan trọng trong việc tồn vong và thịnh vượng của ngân hàng nếu đánh giá được mức độ ảnh hưởng của chúng sẽ giúp cho các nhà quản lý có những chính sách phù hợp.

Dựa theo số liệu của Ngân hàng nhà nước công bố ngày 30/06/2019, Việt Nam có 49 ngân hàng; trong đó 4 ngân hàng 100% vốn nhà nước, 31 ngân hàng thương mại, 9 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 2 ngân hàng chính sách, 1 ngân hàng hợp tác xã và 2 ngân hàng liên doanh. Việc đánh giá hiệu quả cũng như các nhân tố vĩ mô tác động tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng là đặc biệt quan trọng. Trong luận án này, tác giả lựa chọn đánh giá hiệu quả hoạt động (hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả quy mô, hiệu quả quản lý) của một số ngân hàng thương mại bao gồm 23 ngân hàng. Từ việc sử dụng mô hình kinh tế lượng để tăng tính thuyết phục cho nghiên cứu, tác giả phân tích hiệu quả và một số nhân tố vĩ mô như FDI, GDP hay lạm phát tác động tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng này. Qua đó, tác giả đưa ra bức tranh tổng quan về hoạt động của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam và khuyến nghị một số chính sách cho ngành ngân hàng nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng, đặc biệt là các chính sách đối phó với các kịch bản của kinh tế vĩ mô.

Trên đây là các lý do tác giả lựa chọn đề tài “Tác động của một số nhân tố vĩ mô đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam” làm đề tài luận án của mình.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu của luận án là đo lường hiệu quả hoạt động của các ngân hàng và tác động của một số nhân tố vĩ mô như FDI, GDP và lạm phát tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Từ đó, luận án đề xuất một số khuyến nghị

Tác động của một số nhân tố vĩ mô đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 2


nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian tới.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận án đề ra bốn nhiệm vụ nghiên cứu như sau:

- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là tìm hiểu các mô hình đo lường hiệu quả và mô hình đánh giá tác động của các yếu tố vĩ mô tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại.

- Đánh giá thực trạng hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

- Đánh giá tác động của các yếu tố vĩ mô là FDI, GDP và lạm phát tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

- Dựa vào kết quả nghiên cứu, luận án đưa ra các khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam, đặc biệt là có thể làm giảm tác động tiêu cực của các nhân tố bên ngoài tới hoạt động của ngân hàng.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại và tác động của các yếu tố vĩ mô là FDI, GDP và lạm phát tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi nội dung: Luận án chỉ đánh giá tác động của các yếu tố vĩ mô là FDI, GDP và lạm phát tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Mặc dù hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam hiện nay gồm Ngân hàng thương mại Nhà nước Việt Nam, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam; tuy nhiên, việc đánh giá hiệu quả của tất cả các ngân hàng này gặp nhiều khó khăn do mục đích hoạt động và cách thức hoạt động rất khác nhau, nên luận án chỉ tập trung vào đánh giá hiệu quả và các nhân tố tác động tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam.

- Phạm vi không gian: Luận án nghiên cứu với 23 ngân hàng thương mại Việt Nam do có đầy đủ số liệu sử dụng cho mô hình phân tích.


- Phạm vi thời gian: Thời kỳ nghiên cứu là 13 năm từ năm 2008 đến năm 2020

4. Phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng phương pháp định tính kết hợp với định lượng để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, từ đó, đạt được mục tiêu nghiên cứu. Phương pháp định lượng sẽ được thực hiện qua mô hình DEA, và mô hình hồi quy Tobit.

Sau khi lựa chọn mô hình và các biến đầu vào – đầu ra, tác giả tiến hành phân tích dữ liệu và chạy mô hình. Từ kết quả của mô hình, tác giả đưa ra một số nhận xét về thực trạng hiệu quả hoạt động và các nhân tố vĩ mô như FDI, GDP và lạm phát ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam.

Các biến đầu vào của mô hình gồm có: chi phí lương (x1); tổng tài sản (x2) bao gồm các tài sản cố định như trụ sở làm việc, thiết bị, đầu tư công nghệ … được ngân hàng sử dụng trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng (không kể các khoản cho vay); tổng tiền gửi (x3); lao động (x4) và các biến đầu ra bao gồm: thu nhập từ lãi cho vay (y1); thu nhập từ hoạt động khác (y2); tổng dư nợ (y3).

Với tập hợp các đầu vào và đầu ra như vậy, nghiên cứu sinh ước lượng hiệu quả của từng ngân hàng theo năm. Sau đó ước lượng mô hình hồi quy để xem xét ảnh hưởng của các nhân tố vĩ mô đến hiệu quả này.

4.2. Thông tin và dữ liệu được sử dụng trong mô hình nghiên cứu

Dữ liệu được sử dụng trong luận án:

Nghiên cứu này sử dụng số liệu thu thập từ báo cáo thường niên của 23 ngân hàng từ năm 2008-2020 và gồm các chỉ tiêu sau: tổng tiền gửi, chứng khoán, thu nhập từ hoạt động, tài sản cố định, chi phí hoạt động, lao động. Trong đó chứng khoán bao gồm: chứng khoán đầu tư sẵn sàng để bán cộng với chứng khoán đầu tư giữ đến ngày đáo hạn - dự phòng giảm giá chứng khoán đầu tư và một số chỉ tiêu khác… Do không có đủ các chỉ tiêu cho các cách tiếp cận nên luận án chỉ tập trung vào cách tiếp cận mà có thể thu thập đủ được các chỉ tiêu.

Ngoài ra, các số liệu về FDI, GDP và lạm phát được thu thập từ nguồn dữ liệu của GSO (Tổng Cục thống kê) giai đoạn 2008 – 2020.

5. Những đóng góp mới của luận án

Thứ nhất, luận án sử dụng phương pháp định lượng hiện đại và đáng tin cậy để đánh giá hiệu quả và đánh giá tác động của các nhân tố vĩ mô đến hiệu quả hoạt động


của ngân hàng. Về điểm này, không có nhiều nghiên cứu ở Việt Nam làm được. Hầu hết các nghiên cứu đánh giá/ đo lường hiệu quả hoạt động bằng các phương pháp truyền thống, từ đó các kết quả có thể mang ít tính thuyết phục hơn.

Thứ hai, luận án có điểm mới trong việc sử dụng cách tiếp cận trung gian để đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Việc sử dụng các chỉ tiêu đơn như trong các nghiên cứu trước đây chưa phản ánh toàn diện hoạt động của ngân hàng. Do các chỉ tiêu phản ánh còn đơn điệu và chung chung, nên khó giúp cho các nhà quản lý có thể đưa ra được các quyết định đúng thời điểm. Các chỉ tiêu này chủ yếu nghiêng về mục tiêu báo cáo tài chính hơn là đi sâu phân tích kết quả hoạt động của ngân hàng. Các chỉ tiêu được đánh giá bằng cách tiếp cận trung gian thể hiện một đánh giá toàn diện và có tính chính xác cao hơn so với các cách tiếp cận cũ.

Thứ ba, luận án lựa chọn giai đoạn nghiên cứu có sự cập nhật dữ liệu và phản ánh được tính biến động của ngành ngân hàng nói riêng và chu kì kinh tế nói chung. Giai đoạn nghiên cứu 2008 - 2020 là giai đoạn ghi nhận nhiều biến động tái cấu trúc trong hệ thống ngân hàng như sáp nhập, thâu tóm nên các khuyến nghị đề xuất có ý nghĩa đặc biệt.

6. Kết cấu luận án

Luận án bao gồm 5 chương:

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

CHƯƠNG 2. LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG VÀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ VĨ MÔ TỚI HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

CHƯƠNG 3. MÔ TẢ VÀ LỰA CHỌN MÔ HÌNH ĐỂ ĐO LƯỜNG HIỆU QUẢ

CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ TỪ ĐO LƯỜNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG VÀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ VĨ MÔ ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.

CHƯƠNG 5. KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU


1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu

Trong quá trình chuyển đổi kinh tế, ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng. Ở Việt Nam, trong thời gian qua đã chứng kiến những thay đổi vô cùng to lớn trong hệ thống ngân hàng. Chỉ tính riêng về tổ chức thì việc thôn tính, sáp nhập diễn ra rất sôi động. Về thay đổi công nghệ trong khu vực ngân hàng, không riêng gì Việt Nam mà cả trên thế giới đã trải qua những biến động sâu sắc. Những ứng dụng tiên tiến của cách mangh công nghiệp 4.0 và truyền thông cùng với việc xuất hiện các công cụ tài chính mới đã làm thay đổi cách thức thực hiện nghiệp vụ ngân hàng. Những chuyển biến như vậy làm thay đổi đáng kể công nghệ sản xuất của ngân hàng, khi người ta vẫn luôn coi ngân hàng là một ngành sản xuất dịch vụ. Về mặt này, một câu hỏi có thể đặt ra ở đây là tác động của những thay đổi này lên hiệu quả hoạt động của các ngân hàng diễn ra như thế nào? Berger và Humphrey (1997) đã có một tổng quan khá đầy đủ trong việc trả lời câu hỏi này bằng việc đề xuất các phương pháp mới để đo hiệu quả của khu vực ngân hàng. Các phương pháp tính hiệu quả được sử dụng rộng rãi nhất là phân tích phi tham số và phương pháp tham số (tiếp cận đường biên ngẫu nhiên). Dưới đây luận án trình bày vắn tắt một số những vấn đề chủ yếu của các nghiên cứu về năng suất và hiệu quả, tập trung vào phương pháp luận được sử dụng trong bài này.

Mục tiêu của nghiên cứu này là sử dụng mô hình (các mô hình phi tham số) cũng như các cách lựa chọn đầu vào và đầu ra trong nghiên cứu của luận án để tính toán hiệu quả, tiến bộ công nghệ, tăng trưởng năng suất của các ngân hàng thương mại Việt Nam từ năm 2008-2020, thời kỳ diễn ra quá trình thâu tóm, sáp nhập mạnh mẽ trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.

1.1.1. Các nghiên cứu về hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại

Các nghiên cứu về hiệu quả hoặc năng suất trong khu vực ngân hàng thường phân tích dựa trên cơ sở so sánh những hệ số tài chính. Có một nhóm hệ số thường xuyên được sử dụng và mỗi hệ số đó đề cập đến một khía cạnh riêng của hoạt động ngân hàng. Vì ngành ngân hàng sử dụng nhiều đầu vào để sản xuất nhiều đầu ra, điều này đã đưa đến nghiên cứu về phép gộp thích hợp (Kim, 1986). Một số nghiên cứu đã cố gắng ước lượng các hàm chi phí thực hành trung bình. Trong khi các tiếp cận này thành công trong việc xác định sự tăng năng suất thực hành trung bình thì chúng lại không tính đến năng suất của các ngân hàng thực hành tốt nhất. Những vấn đề này gắn với cách tiếp cận "cổ


điển" đối với năng suất đã dẫn đến các cách tiếp cận khác có đưa vào nhiều đầu vào/đầu ra và xét đến hiệu quả hoạt động tương đối của các ngân hàng.

Một loạt nghiên cứu sử dụng phân tích đường biên để phân tách các đơn vị ngân hàng hoạt động hiệu quả với các đơn vị kém hiệu quả, theo một bộ tiêu chuẩn được chỉ định. Tiêu điểm của những nghiên cứu này là những thay đổi của đường biên hiệu quả và các ngân hàng hoạt động gần đường biên hiệu quả như thế nào. Phương pháp thứ nhất đòi hỏi xác định các đơn vị sản xuất hiệu quả và xây dựng một đường biên hiệu quả tuyến tính từng khúc sử dụng các đơn vị hiệu quả này. Phương pháp này được thực hiện đầu tiên bởi Charnes, Cooper và Rhodes (1978), các tác giả này sử dụng các phương pháp quy hoạch tuyến tính để xác định các đơn vị hiệu quả và đặt ra tên gọi Phân tích bao dữ liệu (DEA).

Tác giả có những nghiên cứu nổi bật trong hiệu quả, năng suất và điều tiết hệ thống ngân hàng phải kể đến nghiên cứu của Humphrey, D.B. (1990). Bên cạnh đó, đã có rất nhiều nghiên cứu đã sử dụng phân tích bao dữ liệu vào các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt lĩnh vực ngân hàng ở nhiều quốc gia khác nhau. Ở các nước phát triển có rất nhiều nghiên cứu, chẳng hạn Berg et al. (1991) nghiên cứu cho các ngân hàng Na Uy. Lang và Welzel (1996) nghiên cứu cho các ngân hàng Đức. Resti (1997) nghiên cứu cho các ngân hàng Ý. Altunbus et al. (1999) và Drake và Hall (2000) nghiên cứu cho các ngân hàng Nhật Bản. Rebelo và Mendes (2000) cho các ngân hàng Bồ Đào Nha. Gilbert và Wilson (1998) nghiên cho các ngân hàng Hàn Quốc. Leong (2002) cho ngân hàng Singapore và các nước đang phát triển, như Leightner và Lovell (1998) nghiên cứu cho các ngân hàng Thái Lan. Hay các nghiên cứu cho ngân hàng Việt Nam như Hùng (2008), Minh và cộng sự (2013). Có thể chi tiết một vài nghiên cứu chẳng hạn như Leong (2002) và cộng sự sử dụng dữ liệu về ngân hàng Singapore trong giai đoạn 1993-1999 để phát triển điểm hiệu quả và xếp hạng cho các ngân hàng Singapore. Sau đó, họ sử dụng năm điều kiện vững được Bauer và cộng sự (1997) phát triển để kiểm tra những điểm số này và bảng xếp hạng. Cách tiếp cận của họ cho phép các nhà nghiên cứu thử nghiệm với các mô hình khác nhau và lựa chọn mô hình thích hợp nhất cho các mục đích chính sách. Trong nghiên cứu “Banking Efficiency in the Nordic Countries: A four – country Malmquist Index Analysis”, nhóm tác giả Bukh và cộng sự (1995) quan tâm đến sự tác động của các yếu tố cạnh tranh đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại và thực hiện nghiên cứu vấn đề này tại các ngân hàng khu vực Bắc Âu. Nghiên cứu sử dụng phương pháp phi tham số DEA với các biến đầu vào: giá trị máy móc thiết bị, lao động (tính theo số giờ làm việc), chi phí hoạt động và các biến đầu ra: tiền gửi từ các tổ chức tài chính, cho vay đối với các tổ chức tài chính, số lượng chi


nhánh, bảo lãnh cho khách hàng. Kết quả cho thấy các ngân hàng lớn nhất ở Đan Mạch và Thụy Điển có mức hiệu quả cao nhất, có nhiều khả năng phát triển ra thị trường ngoài khu vực Bắc Âu.

Sathye (2001) đã nghiên cứu sự thay đổi năng suất trong ngân hàng Úc trong giai đoạn 1995–1999 bằng cách sử dụng chỉ số Malmquist, và nhận thấy rằng tổng năng suất nhân tố trung bình trong ngân hàng Úc là 1,013. Pastor J.M., F. Perez, and J. Quesada, (1997) nghiên cứu hiệu quả của các ngân hàng trong so sánh quốc tế. Barr R. S., L.M. Seiford, and T.F. Siems, (1994) đã dự báo đổ vỡ trong ngân hàng bằng tiếp cận phi tham số.

Ngoài ra, các nhóm tác giả Lawrence M. Seiford, Joe Zhu (1999) và Richard S. Barr, Kory A. Killgo Thomas F. Siems and Sheri Zimmel (1999) đều sử dụng mô hình phân tích màng bao dữ liệu để đánh giá hiệu suất làm việc của các ngân hàng thương mại. Trong đó nhóm tác giả Lawrence M. Seiford, Joe Zhu (1999) sử dụng những phát triển gần đây trong phân tích màng bao dữ liệu để xem xét hiệu suất của 55 ngân hàng thương mại hàng đầu của Mỹ thông qua: Khả năng sinh lợi (tỷ suất lợi nhuận, mức sinh lợi) và tính thương mại (tính thị trường, khả năng lưu thông). Hiệu suất không đáng kể được phát hiện ở cả hai chiều. Các ngân hàng tương đối lớn thể hiện hiệu suất tốt hơn về lợi nhuận, trong khi các ngân hàng nhỏ hơn có xu hướng hoạt động tốt hơn đối với tính thương mại. Còn Richard S. Barr, Kory A. Killgo Thomas F. Siems and Sheri Zimmel (1999) sử dụng hệ số nhân bị ràng buộc, định hướng đầu vào, mô hình phân tích màng bao dữ liệu (DEA) để đánh giá hiệu quả năng suất và hoạt động của các ngân hàng thương mại Hoa Kỳ từ năm 1984 đến 1998. Kết quả cho thấy mối quan hệ bền vững và nhất quán giữa hiệu quả với đầu vào và đầu ra. Thêm vào đó, kết quả cũng cho thấy tác động của các điều kiện kinh tế khác nhau ở một mức độ nào đó tương quan với hiệu suất tương đối của các ngân hàng.

David Grigorian and Vlad Manole (2002) nghiên cứu ước tính các chỉ số về hiệu quả của ngân hàng thương mại bằng cách áp dụng một phiên bản Phân tích màng bao dữ liệu (DEA) cho dữ liệu cấp ngân hàng từ một loạt các quốc gia đang phát triển bằng cách nhấn mạnh tối đa hóa lợi nhuận và cung cấp dịch vụ giao dịch làm mục tiêu chính của ngân hàng. Ngoài việc nhấn mạnh tầm quan trọng của một số biến số cụ thể của ngân hàng, phân tích Tobit được kiểm duyệt cho thấy rằng (1) sở hữu nước ngoài với quyền lực kiểm soát và tái cấu trúc doanh nghiệp giúp nâng cao hiệu quả của ngân hàng thương mại; (2) ảnh hưởng của thắt chặt thận trọng (prudential tightening) đến hiệu quả của các ngân hàng khác nhau giữa các chuẩn mực thận trọng (prudential norms) khác nhau; và (3) hợp nhất có khả năng cải thiện hiệu quả của hoạt động ngân hàng. Nhìn

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/07/2022