1.1. Để hoàn thành các mục tiêu kinh tế xã hội
Nghị quyết TW IX, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đặt ra mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa - hiện đại hóa, khắc phục nguy cơ tụt hậu của nước ta so với thế giới và khu vực, đưa Việt Nam ra khỏi nhóm nước đang phát triển có thu nhập thấp. Do đó, trong những năm tới, nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển là rất lớn. Để đạt mục tiêu tăng GDP gấp đôi vào năm 2020, sơ bộ ước tính nhu cầu tổng vốn đầu tư phát triển kinh tế của kế hoạch 5 năm (2005- 2010) là khoảng 1580-1960 ngàn tỷ đồng, tương đương với 117-124 tỷ USD, chiếm 38% GDP. Đây là một nhiệm vụ khó khăn đòi hỏi phải tiếp tục quán triệt đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng được khẳng định trong Đại hội Đảng IX, đặc biệt Nghị quyết TW IX khóa IX đã khẳng định: “gắn huy động nguồn nội lực với ngoại lực, gắn cải cách trong nước với hội nhập để tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức trong giai đoạn tới”; điều đó một mặt đòi hỏi phải xây dựng đồng bộ và hoàn thiện cơ bản thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; mặt khác cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và các giải pháp đồng bộ nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, trong đó có việc phải xây dựng một Luật Đầu tư áp dụng thống nhất nhằm đảm bảo quyền bình đẳng, tự do đầu tư kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh và tạo sự hấp dẫn các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế.
1.2. Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh
Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh không ngừng được cải thiện theo hướng phù hợp với việc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đó, môi trường kinh doanh tại Việt Nam cũng không ngừng được hoàn thiện, thay đổi theo hướng bình đẳng, không phân biệt, tạo lập “một sân chơi chung” cho các hình thức đầu tư, các thành phần kinh tế, thể hiện qua hàng loạt các đạo luật mới được ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung. Những khác biệt về điều kiện đầu tư, kinh doanh cũng như điều kiện gia nhập thị trường, các yếu tố đầu vào, đầu ra và hoạt động quản lý doanh nghiệp
giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài đã được thu hẹp đáng kể, thậm chí nhiều chính sách đã được áp dụng chung cho cả hai nhóm đối tượng.
Tuy nhiên, do các luật liên quan đến hoạt động đầu tư cho đến thời điểm đó chủ yếu được ban hành riêng lẻ, chưa có sự nhất quán về nội dung, phạm vi điều chỉnh trên thực tế chưa thực sự tạo được một sân chơi bình đẳng như chủ trương của Đảng và yêu cầu hội nhập. Những khác biệt như vậy đã làm cho hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh thiếu nhất quán, minh bạch; tình trạng phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư và các loại hình doanh nghiệp khác nhau đang tồn tại, đã hạn chế việc phát huy các nguồn lực. Thêm vào đó, sự phát triển năng động, đa dạng của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đã làm bộc lộ những bất cập của hệ thống pháp luật tách biệt theo thành phần kinh tế.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài
- Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Tại Việt Nam.
- Tăng Thu Ngân Sách, Đẩy Mạnh Tăng Trưởng Kinh Tế Và Xuất Khẩu
- Tác động của luật đầu tư năm 2005 vào đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam - 7
- Về Lĩnh Vực, Địa Bàn Đầu Tư, Ưu Đãi, Hỗ Trợ Đầu Tư
- Dự Án Fdi Được Cấp Phép Trong Giai Đoạn 1988-1996 (Xem Thêm Phụ Lục 4)
Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.
Do đó, việc xây dựng Luật Đầu tư áp dụng thống nhất cho các nhà đầu tư là yêu cầu thiết yếu nhằm tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nhất là môi trường pháp lý để củng cố niềm tin của các nhà đầu tư tạo điều kiện thuận lợi trong việc thu hút đầu tư tối đa và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư.
1.3. Đảm bảo thực hiện các cam kết quốc tế về đầu tư
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta đã ký kết nhiều hiệp định song phương và đa phương liên quan đến hoạt động đầu tư và hiện nay đang ở giai đoạn phải thực hiện về cơ bản các cam kết quốc tế đó như những cam kết trong khuôn khổ AFTA, Hiệp định khung về đầu tư ASEAN, Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ, Hiệp định tự do hóa, khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản,…Hơn thế nữa, thời điểm năm 2005 là khi Việt Nam đang tích cực đàm phán gia nhập WTO. Để có thể gia nhập WTO, Việt Nam cần phải đảm bảo nguyên tắc không phân biệt đối xử – nguyên tắc cơ bản của WTO. Việc ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế liên quan đến hoạt động đầu tư một mặt vừa đòi hỏi Việt Nam phải mở cửa thị trường, xóa bỏ các rào cản thuế quan, phi thuế quan hoặc các trợ cấp không phù hợp với thông lệ quốc tế, mặt khác vẫn phải duy trì một số chính sách
bảo hộ sản xuất trong nước có điều kiện, có thời gian, mở của thị trường theo lộ trình xác định.
Do đó, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật phục vụ cho hội nhập quốc tế, trong đó có Luật Đầu tư, là yêu cầu cấp thiết để đảm bảo hệ thống pháp luật về đầu tư phù hợp với cam kết quốc tế, phản ánh thông điệp quan trọng về chính sách đổi mới và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
1.4. Nâng cao khả năng cạnh tranh của Việt Nam trong thu hút FDI
Cuộc cạnh tranh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới diễn ra ngày càng gay gắt, đặc biệt là khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới. Trong bối cảnh đó, các nước trong khu vực đã cải cách mạnh mẽ môi trường đầu tư theo hướng tự do hóa chính sách đầu tư, thương mại với các đối tác kinh tế lớn nhằm tranh thủ nguồn vốn đầu tư, công nghệ. Hệ thống luật pháp về ĐTNN của Việt Nam trước đây được coi là hấp dẫn, thông thoáng, nay giảm dần tính cạnh tranh so với những chuyển biến mới về chính sách thu hút đầu tư của các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong bối cảnh đó, cần thiết phải ban hành Luật Đầu tư mới để thể hiện rõ ràng, minh bạch hơn chính sách bảo đảm đầu tư, khuyến khích, ưu đãi đầu tư, đơn giản hóa thủ tục hành chính và tháo gỡ các rào cản liên quan đến đầu tư như hạn chế lĩnh vực đầu tư, các điều kiện thương mại liên quan đến đầu tư, hạn chế về tổ chức và quản lý doanh nghiệp, hạn chế về hình thức đầu tư, thiếu tự do trong việc quyết định các hoạt động đầu tư.
1.5. Tăng tính hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về đầu tư
Công tác quản lý đầu tư nói chung, bao gồm cả việc quản lý các dự án ĐTNN và các dự án đầu tư bằng vốn nhà nước còn nhiều yếu kém, thiếu sót đã dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí, hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư còn thấp; cơ cấu đầu tư còn nhiều điểm chưa hợp lý; sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển, vốn đầu tư của doanh nghiệp còn kém hiệu quả; công tác thanh tra giám sát chậm được chú ý, còn lúng túng trong hướng dẫn triển khai thực hiện. Do đó, việc ban hành một văn bản có quy định cụ thể về công tác quản lý nhà nước về đầu tư là
một yêu cầu khách quan nhằm nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn đầu tư trong nước cũng như ĐTNN.
Như vậy, việc ban hành Luật Đầu tư năm 2005 là một đòi hỏi tất yếu của việc tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bắt nguồn tư chủ trương, đường lối của Đảng, từ thực tiễn hoạt động đầu tư, đòi hỏi của hội nhập và cạnh tranh quốc tế nhằm huy động nhiều hơn, sử dụng có hiệu quả, khắc phục tình trạng lãng phí các nguồn lực đầu tư trong nước và nước ngoài của mọi thành phần kinh tế.
2. Nội dung cơ bản của Luật Đầu tư năm 2005
Luật Đầu tư năm 2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2006, Luật này ra đời thay thế các Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài năm 2000 và Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998.
Những nội dung được quy định trong Luật đầu tư đã tạo lập một khung pháp lý thống nhất cho các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế, xoá bỏ các rào cản, các phân biệt đối xử bất hợp lý giữa các nhà đầu tư. Đây là một trong những cam kết quan trọng của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là gia nhập WTO. Đồng thời, Luật cũng tạo điều kiện pháp lý tăng quyền tự chủ, quyền tự quyết định của các nhà đầu tư trong hoạt động đầu tư, kinh doanh và quản trị nội bộ.
Luật gồm có 10 chương 89 điều như sau:
Chương I. Những quy định chung, gồm 5 điều (từ Điều 1 đến Điều 5), quy định về: phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ; chính sách về đầu tư; áp dụng pháp luật đầu tư, điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế.
Chương II. Bảo đảm đầu tư, gồm 7 điều (từ Điều 6 đến Điều 12), quy định về: bảo đảm về vốn và tài sản; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; mở cửa thị trường, đầu tư liên quan đến thương mại; chuyển vốn, tài sản ra nước ngoài; áp dụng giá, phí, lệ phí thống nhất; bảo đảm đầu tư trong trường hợp thay đổi pháp luật, chính sách; giải quyết tranh chấp.
Chương III. Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư, gồm 8 điều (từ Điều 13 đến Điều 20), quy định về: quyền tự chủ đầu tư, kinh doanh; quyền tiếp cận, sử dụng nguồn lực đầu tư; quyền xuất khẩu, nhập khẩu, quảng cáo, tiếp thị, gia công và gia công lại liên quan đến hoạt động đầu tư; quyền mua ngoại tệ; quyền chuyển nhượng, điều chỉnh vốn hoặc dự án đầu tư; thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất; các quyền khác của nhà đầu tư; nghĩa vụ của nhà đầu tư.
Chương IV. Hình thức đầu tư, gồm 6 điều (từ Điều 21 đến Điều 26), quy định về: các hình thức đầu tư trực tiếp; đầu tư thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư theo hợp đồng; đầu tư phát triển kinh doanh; góp vốn, mua cổ phần và sáp nhập, mua lại; đầu tư gián tiếp.
Chương V. Lĩnh vực, địa bàn đầu tư, ưu đãi và hỗ trợ đầu tư, gồm 18 điều (từ Điều 27 đến Điều 44), quy định về: lĩnh vực ưu đãi đầu tư; địa bàn ưu đãi đầu tư; lĩnh vực đầu tư có điều kiện; lĩnh vực cấm đầu tư; ban hành danh mục các lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư, đầu tư có điều kiện; đối tượng và điều kiện ưu đãi đầu tư; ưu đãi về thuế; chuyển lỗ; khấu hao tài sản cố định; ưu đãi về sử dụng đất; ưu đãi đối với nhà đầu tư đầu tư vào khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX), khu công nghệ cao (KCNC), khu kinh tế (KKT); thủ tục thực hiện ưu đãi đầu tư; trường hợp mở rộng ưu đãi; hỗ trợ chuyển giao công nghệ; hỗ trợ đào tạo; hỗ trợ và khuyến khích phát triển dịch vụ đầu tư; đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng KCN, KCX, KCNC, KKT; thị thực xuất cảnh, nhập cảnh.
Chương VI. Hoạt động đầu tư trực tiếp, gồm 22 điều (từ Điều 45 đến Điều 66), quy định về: thủ tục đăng ký đầu tư (ĐKĐT) đối với dự án đầu tư trong nước; thủ tục ĐKĐT đối với dự án có vốn đầu tư nước ngoài; thẩm tra dự án đầu tư; thủ tục thẩm tra đối với dự án có quy mô vốn đầu tư từ ba trăm tỷ đồng Việt Nam trở lên và không thuộc Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện; thủ tục thẩm tra đối với dự án thuộc Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện; thủ tục đầu tư gắn với thành lập tổ chức kinh tế; điều chỉnh dự án đầu tư; thời hạn hoạt động của dự án có vốn đầu tư nước ngoài; trách nhiệm lập dự án, quyết định đầu tư, thẩm tra đầu tư; lựa chọn nhà đầu tư đối với dự án có nhiều nhà đầu tư quan tâm; thuê, giao nhận đất thực hiện dự án; chuẩn bị mặt bằng xây dựng; thực hiện dự án đầu tư có khai thác, sử dụng tài
nguyên, khoáng sản; thực hiện dự án đầu tư có xây dựng; giám định máy móc, thiết bị; tiêu thụ sản phẩm tại thị trường Việt Nam; tài khoản ngoại tệ, tài khoản tiền đồng Việt Nam; bảo hiểm; thuê tổ chức quản lý; tạm ngừng dự án, thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư; chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư; bảo lãnh của Nhà nước cho một số công trình dự án quan trọng.
Chương VII. Đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước, gồm 7 điều (từ Điều 67 đến Điều 73), quy định về: quản lý đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước; đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước vào tổ chức kinh tế; đầu tư của Nhà nước vào hoạt động công ích; đầu tư bằng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước; tổ chức, cá nhân được giao quản lý dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước; thay đổi nội dung, hoãn, đình chỉ, hủy bỏ dự án đầu tư; lựa chọn nhà thầu thực hiện dự án.
Chương VIII. Đầu tư ra nước ngoài, gồm 6 điều (từ Điều 74 đến Điều 79), quy định về: đầu tư ra nước ngoài; lĩnh vực khuyến khích, cấm đầu tư ra nước ngoài; điều kiện đầu tư ra nước ngoài; quyền của nhà đầu tư ra nước ngoài; nghĩa vụ của nhà đầu tư ra nước ngoài; thủ tục đầu tư ra nước ngoài.
Chương IX. Quản lý nhà nước về đầu tư, gồm 8 điều (từ Điều 80 đến Điều 87), quy định về: nội dung quản lý nhà nước về đầu tư; trách nhiệm quản lý nhà nước về đầu tư; quản lý đầu tư theo quy hoạch; xúc tiến đầu tư; theo dõi, đánh giá hoạt động đầu tư; thanh tra về hoạt động đầu tư; khiếu nại, tố cáo, khởi kiện; xử lý vi phạm.
Chương X. Điều khoản thi hành, gồm 2 điều (Điều 88 và Điều 89), quy định về áp dụng pháp luật đối với các dự án đang thực hiện đầu tư trước khi Luật này có hiệu lực và hiệu lực thi hành.
3. Những điểm mới có liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài trong Luật Đầutư năm 2005
3.1. Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư nước ngoài
a. Quyền tự chủ đầu tư kinh doanh
Theo điều 13 LĐT, các nhà đầu tư trong đó có nhà đầu tư nước ngoài có quyền:
- Lựa chọn lĩnh vực đầu tư, hình thức đầu tư, phương thức huy động vốn, địa bàn, quy mô đầu tư, đối tác đầu tư và thời hạn hoạt động của dự án đầu tư.
- Đăng ký kinh doanh một hoặc nhiều ngành, nghề; thành lập doanh nghiệp theo quy định pháp luật; tự quyết định về hoạt động đầu tư, kinh doanh đã được đăng ký.
Như vậy LĐT đã thiết lập một sân chơi bình đẳng, trên cơ sở không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
b. Quyền tiếp cận, sử dụng các nguồn lực đầu tư
Theo Khoản 1 Điều 14 LĐT, nhà đầu tư trong và ngoài nước được quyền bình đẳng trong việc tiếp cận, sử dụng các nguồn vốn tín dụng, quỹ hỗ trợ, sử dụng đất đai và tài nguyên theo quy định của pháp luật.
Nhà đầu tư cũng được quyền thuê hoặc mua thiết bị, máy móc ở trong nước và nước ngoài để thực hiện dự án đầu tư chứ không bị bắt buộc phải ưu tiên mua sắm thiết bị, máy móc, vật tư, phương tiện vận tải tại Việt Nam trong điều kiện kỹ thuật, thương mại như nhau như trong quy định tại điều 31 Luật ĐTNN năm 1996.
Một điểm khác nổi bật trong quy định về quyền tiếp cận và sử dụng nguồn lực đầu tư đối với các nhà đầu tư nước ngoài là quyền thuê lao động. Theo Khoản 2 Điều 14 LĐT, nhà đầu tư được quyền thuê lao động trong nước, thuê lao động nước ngoài làm công việc quản lý, lao động kỹ thuật, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó. Như vậy, LĐT đã bãi bỏ quy định nhà đầu tư nước ngoài phải “ưu tiên tuyển dụng công dân Việt Nam, chỉ được tuyển người nước ngoài làm việc những công việc đòi hỏi trình độ kỹ thuật và quản lý mà Việt Nam chưa đáp ứng được, nhưng phải đào tạo lao động Việt Nam thay thế” theo quy định tại điều 25 Luật ĐTNN năm 1996.
c. Quyền xuất khẩu, nhập khẩu, quảng cáo, tiếp thị, gia công và gia công lại liênquan đến hoạt động đầu tư
LĐT làm rõ quyền nhập khẩu của doanh nghiệp nước ngoài, theo đó, nhà đầu tư có thể trực tiếp hoặc ủy thác nhập khẩu thiết bị, máy móc, vật tư, nguyên liệu và hàng hóa cho hoạt động đầu tư (Khoản 1 Điều 15). LĐT cũng loại bỏ phương tiện vận tải ra khỏi danh mục nhập khẩu của nhà đầu tư nước ngoài và bổ sung thêm nguyên liệu, và hàng hóa cần thiết cho hoạt động đầu tư.
Trong Luật ĐTNN năm 1996 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật ĐTNN năm 2000 chưa có quy định gì về quảng cáo, tiếp thị, gia công và gia công lại liên quan đến hoạt động đầu tư. LĐT đã bổ sung các quy định liên quan đến các